Giọt nắng đầu mùa

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Những hạt sương long lanh dưới tia nắng đầu mùa hạ vẫn còn đọng trên cành lá sau vườn của Thiền viện.

Xem kìa các bạn! Cô Nguyên Trung với đôi chân thoăn thoắt, tay xách 2 bình nước tưới đều đặn từng luống hoa gần tháp của Sư ông. Đó là công việc mỗi ngày của cô sau thời công phu sáng.

Ánh bình minh của buổi giao mùa thật kỳ diệu, tôi đứng mãi mê nhìn và thả hồn theo trong gió, ngay lúc đó 3 tiếng khánh báo hiệu giờ điểm tâm, đại chúng đã vân tập đầy đủ.

Trong không khí trang nghiêm, thanh tịnh của những ngày đầu hạ cũng là giây phút chập chững của những chú Tiểu mới bước chân vào chốn Thiền môn. Sau bữa điểm tâm, Sư cô quản chúng nhắc nhở đại chúng: “Hôm nay, các em sắp xếp công việc nhanh gọn để chuẩn bị lên  nghe Sư Bà thuyết giảng”. Vì thế, tôi và một số các bạn đồng tu (học sinh) đều được tham dự buổi thuyết giảng của Sư Bà.

Thời gian lặng lẽ trôi nhanh, đã gần 1 tháng rồi, mỗi ngày như mọi ngày “Trú dạ lục thời” làm phương tiện cho đại chúng trau giồi giới đức, nhiếp phục thân tâm trong 3 tháng An cư kiết hạ.

Như thường lệ, thời tụng kinh Kim Cang lúc 9 giờ vừa hoàn mãn, quý cô giải y trong niềm tịnh lạc, tất cả đều giữ oai nghi tế hạnh, tôi đứng lặng nhìn quý cô mà quên đi công việc mình phải làm là xếp kệ đem cất. Mùa Hạ năm nay tôi đủ thiện duyên nên được vào chùa tập sự, mới đầu đối với tôi cái gì cũng lạ và khó hiểu, nhờ sự chỉ bảo quý cô dần dần tôi đã thành thạo và nhất là được học hỏi rất nhiều về lời dạy của đức Thế Tôn, Phật pháp thật cao siêu và mầu nhiệm.

Các bạn biết không? Ngoài những giờ tụng kinh, học giáo lý… tôi sợ nhất là giờ ngồi thiền, thật buồn cười, chỉ ngồi được năm phút là tôi đã bị nhắc nhở vì cứ lắc lư cái đầu và gật lia lịa, gần cả tuần tôi mới điều phục được mình, nhưng vẫn chưa hiểu biết gì về quán sổ tức hay quán thoại đầu, thậm chí ngồi kiết già cũng chưa quen, có những lúc tôi không thể nào đứng dậy được mà cứ ngồi ì ra đó, trông thật ngớ ngẩn.

Tối nay, sau giờ tọa thiền, tôi thả bộ dọc theo hành lang của thiền đường, mãi say sưa rong ruổi “… Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh, hà nãi yến nhiên không quá...”  bỗng có tiếng nói thân thiện khoan dung của cô Nguyên Trung.

- Ủa! Em vẫn còn đây à.

Tôi liền quay lại và xá chào Cô, rồi giải bày những chướng duyên trong khi hành thiền quán.

Cô mỉm cười độ lượng, đầy lòng nhân ái, và ôn tồn hướng dẫn cho tôi.

- Em đừng chán nản, thiền quán là pháp môn rất khó thực hành đối với hành giả sơ phát tâm. Thiền là phần thực tập nòng cốt của đạo Phật, có mục đích giúp cho hành giả đạt đến một cái thấy sâu sắc về thực tại, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và người nhiều thảnh thơi và an lạc. Bản chất của thiền là niệm, định, huệ. Ta thực tập thiền không phải chỉ trong tư thế ngồi (tọa thiền) mà còn trong các tư thế khác, như tư thế đi (thiền hành)… sự thực tập này, nếu được chỉ dẫn đúng mức thì sẽ đem lại cho thân tâm sự an lạc …và chủ yếu là hành giả luôn theo dõi tâm mình, nhất là khi có niệm khởi lên thì hành giả phải nhận biết nó khởi lên lúc nào và niệm đó là thiện hay bất thiện. Thực sự luận bàn về thiền quán thì rộng lớn vô lượng vô biên khó nghĩ bàn, ở đây Cô chỉ khái quát về thiền cho em nắm bắt được phần cơ bản mà thôi, em phải thực tập theo đại chúng, từ từ em sẽ thấy niềm hỷ lạc ngay trong khi tu tập thiền quán.

Lời sau cùng Cô đã đọc 4 câu kệ của Sư Ông Nhất Hạnh trong“Sen búp từng cánh hé”:

“Thở vào tâm  tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giây phút đẹp tuyệt vời”.

Tôi xá chào và cám ơn Cô.

Niềm an lạc ngày càng hiện khởi trong tâm tôi, từng giây từng phút và bất cứ lúc nào tôi cũng thực tập thiền quán, tôi đã tiếp xúc được với những giây phút mầu nhiệm của sự sống, thương yêu và chăm sóc, đem lại niềm an lạc hạnh phúc cho mọi người chung quanh.

Gần đến ngày mãn khóa tu rồi, tôi lắng đọng tâm thức, nhìn lại thời gian mình dự khóa tu, sao nhanh quá nhỉ. Đang mỉm cười một mình dưới ánh nắng oi bức của mùa Hạ, Tâm Nhã đứng sau lưng hồi nào không biết.

- Hù! Ngồi làm gì ở đây vậy?

Tôi không trả lời mà chỉ nói với Tâm Nhã.

- Ngày mai tụi mình từ giả quý Cô rồi sao, mau quá nhỉ?

- Ừ! Biết vậy rồi nhưng sao lòng cứ nao nao.        

Hoàng hôn đã lặn chìm sau dãy núi, giọt nắng đầu mùa vẫn rót vào lòng tôi gợi nhớ nụ cười hoan hỷ từ bi của Sư Bà và quý Cô trong Thiền viện.

Thế là ngày tựu trường lại đến rồi, tôi và các bạn chuẩn bị cho năm học mới.

Chúc Thanh.
[Tập san Pháp Luân - số 3, tr.]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.