Pháp luân và Chuyển pháp luân

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times


Một trong những phát minh quan trọng có ảnh hưởng lớn đến lịch sử của nền văn minh nhân loại đó là bánh xe. Thử nhìn vào các cơ chế kỹ thuật hay hầu hết các phương tiện giao thông, từ một cỗ xe thô sơ cho đến các hệ thống máy móc tinh xảo, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được vai trò của phát minh này trong đời sống thường nhật của mỗi người.

Từ sự di chuyển của những viên đá cuội, những thân cây, hay những vật thể tròn bên triền núi, con người từ thuở xa xưa đã biến những hình ảnh đó trong ký ức trở thành một phát minh có ý nghĩa quyết định cho sự tiến bộ của xã hội loài người. Những công cuộc khai quật tại Iraq, Phần Lan, Ấn Độ và Trung Hoa cho biết rằng từ hàng ngàn năm Tr. Tây lịch, tổ tiên của loài người đã biết ứng dụng phát minh này vào các sinh hoạt của đời sống. Điều thú vị là họ đã áp dụng phát minh này vào các hoạt động kỹ thuật và sản xuất trước khi sử dụng nó trong các phương tiện giao thông. Trên lĩnh vực tín ngưỡng và văn hóa, bánh xe cũng là một biểu tượng rất phổ biến trong các truyền thống tôn giáo tại nhiều châu lục khác nhau. Đối với đạo Phật, biểu tượng này đã trở thành một trong những hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có ý nghĩa nhất cho sự hiện hữu cũng như sứ mạng của truyền thống tâm linh này đối với nhân loại trong hơn hai ngàn năm qua.

Khi nói đến các biểu tượng tôn giáo trong nền văn hóa Ấn Độ, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tầm quan trọng của hình ảnh bánh xe và thâm ý của nó trên mảnh đất giàu văn hóa này. Những hình thái tín ngưỡng cổ xưa của Ấn Độ thường được bắt nguồn từ sự tiếp xúc cũng như sự suy nghiệm của các nhà hiền triết đối với các hiện tượng trong thiên nhiên. Theo phong tục từ xa xưa, các đạo sĩ Ấn thường có truyền thống ngồi thiền hướng về phía Đông1. Vì thế, hình ảnh diễm ảo và thiêng liêng đầu tiên mà họ thường tiếp xúc trong buổi thiền định bắt đầu của mỗi ngày mới đó là mặt trời. Khởi đầu từ những tia sáng mong manh, vầng thái dương hiện lên rực rỡ nơi chân trời xa thẳm với dáng vẻ tròn đầy và kích thước của nó dần dần thay đổi theo từng khoảnh khắc của thời gian. Chính hình dáng và sự biến đổi đó của mặt trời đã gợi lên những cảm nhận về vòng biến dịch hay chu kỳ luân chuyển của đất trời, của vũ trụ trong tâm hồn của các nhà ẩn sĩ. Tất cả những cảm nhận và suy nghiệm như thế đã được ghi lại trong các bộ thánh kinh và về sau được lưu truyền trong dân gian. 

Trong truyền thống Vệ-đà, mặt trời thường được thể hiện qua hình dáng của một vòng tròn hoặc bánh xe. Thần mặt trời được khắc họa qua hình ảnh một một thanh niên cưỡi một cỗ xe thất mã và bảy con ngựa này tượng trưng cho bảy sắc màu của ánh sáng mặt trời. Bánh xe của cỗ xe tượng trưng cho sự vận hành của vũ trụ, trong đó tâm điểm của bánh xe chính là sự sống và các nan hoa tượng trưng cho vạn vật của vũ trụ. Số lượng các nan hoa của bánh xe này thường là 5, 12, hoặc 360, tượng trưng cho năm mùa, 12 tháng hoặc 360 ngày trong năm. Ngoài ra, bánh xe cũng là biểu tượng cho thần Vishnu, hay cho cả thế giới và chúng sanh (Atharva Veda). Kinh Rg Veda có nói đến bánh xe uy quyền mà người điều khiển nó là trời Đế Thích. Bộ Brihadaranyaka Upanishad (IV-13&15) giải thích rằng cấu trúc của vũ trụ và mối tương hệ của nó với vô số các cá thể khác cũng giống như một bánh xe mà ở đó trục là tâm điểm, các nan hoa là động lực, và điểm tiếp xúc giữa các nan hoa ấy với vành bánh xe là các cơ quan cảm giác của mỗi người2. Trong số các biểu tượng phổ biến được thể hiện trong nghệ thuật và tôn giáo của Ấn Độ như hoa sen, chữ vạn, sấm chớp, v.v… thì bánh xe vẫn luôn là biểu tượng phổ biến nhất: các vị vua hùng mạnh được gọi là Chuyển luân vương (Cakravatin), khổ và lạc của cuộc đời được ví như hai phạm trù tất yếu trong sự biến dịch của bánh xe thời gian, thần Krishna thì đứng trên một cỗ xe để thuyết giảng bộ Bhagavat Gita, v.v…Trong các bộ kinh cổ xưa cùng những công trình nghệ thuật tại các hang động, bảo tháp, đền đài, v.v..., hình ảnh bánh xe thường được xem là hình tượng tiêu biểu nói lên nguyên lý vận hành của vũ trụ và con người. Khởi đầu từ ý nghĩa biểu trưng cho sự biến dịch và tiến hóa của một năm qua các chu kỳ mùa, tháng, ngày, hình tượng bánh xe về sau đã mở đường cho sự liên tưởng đến một quyền lực tối thượng được nói đến trong truyền thống Vệ-đà.

Trong các văn bản Phật học, chữ cakka (S: cakra) thường được dùng để chỉ cho bánh xe (Trường Bộ III), một loại vũ khí (Bổn Sanh I), hay một trong ba mươi hai tướng tốt của Bậc đại nhân (Trường Bộ II). Thuật ngữ này còn chỉ cho một trú xứ của hàng chư thiên và loài người mà nơi ấy hội đủ bốn phước lành sau: cư trú tại một nơi cố định, thân cận các pháp lành, hoàn thiện tự thân, và gây tạo công đức trong đời trước. Đôi khi danh từ cakka cũng được dùng trong các cụm từ khác như catucakkam (Tương Ưng I) hay iriyāpathacakka (Luận giải Trường Bộ) để chỉ cho bốn oai nghi của mỗi người. Trong Phạn ngữ, chữ cakra thường xuất hiện trong các cụm danh từ riêng để chỉ tên người (cakrapāṇi, tên của một vị Bồ-tát), tên các loài thảo mộc (cakra-vimala, cakra-śatapattra), và tên của một rặng núi bao quanh trái đất (cakra-vāḍa, cakravāḷa). 

Chữ cakra cũng thường được dùng trong các thuật ngữ saṃsāra-cakra hay bhava-cakra để chỉ cho sự biến dịch, luân hồi hay vòng hiện hữu của loài hữu tình với bốn chu kỳ: sanh, trụ, dị, diệt. Nguồn gốc của hình tượng bánh xe luân hồi hay vòng luân hồi, có lẽ, phát xuất từ một câu chuyện trong kinh Thí dụ như sau. Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đệ tử đứng đầu về thần thông của đức Phật, không chỉ hành đạo trong cõi người mà còn thường du hóa đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và cõi trời. Sau khi chứng kiến cảnh chúng sanh chết đi sống lại, bị tàn sát, hành hạ trong địa ngục, cảnh muôn thú tranh giành, giết hại nhau, cảnh các loài quỷ bị đói khát dằn vặt, cảnh thiên nhân hết phước báu bị đọa lạc, suy vong, cảnh loài người bị tham ái cấu xé, bức bách thảm khốc, v.v…, tôn giả bèn trở về cõi Diêm Phù Đề (Ấn Độ) và thuật lại những điều mắt thấy tai nghe này cho bốn chúng đệ tử của đức Phật, khuyên họ nên ý thức đến nỗi khổ triền miên của cõi Ta-bà mà tinh tấn tu trì hướng đến cảnh giới vô sanh an tịnh. Một lần nọ, khi đức Phật trú tại thành Vương-xá, tôn giả Mục-kiền-liên cũng đem những cảnh khổ trên để khuyến hóa các hàng xuất gia và tại gia. Khi thấy mọi người đang vây quanh và chăm chú lắng nghe tôn giả, đức Phật bèn hỏi ngài A-nan vì sao mọi người đang vây quanh tôn giả Mục-kiền-liên, khi biết được nguyên do, đức Phật bèn dạy: “Trưởng lão Mục-kiền-liên hay bất cứ một vị Tỳ-kheo nào khác như trưởng lão cũng không thể cùng một lúc có mặt tại nhiều nơi (để giáo hóa mọi người), vì thế, nên làm hình bánh xe gồm năm phần đặt ngay lối ra vào (của tinh xá)”. Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo còn phân vân, chưa biết nên thiết kế bánh xe như thế nào, đức Phật bèn chỉ dạy như sau: năm phần của bánh xe được minh họa để tượng trưng cho năm cảnh giới, ba cảnh giới phía dưới là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hai cảnh giới bên trên là cõi trời và người, họa cảnh bốn châu Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hóa, Bắc Câu Lô, và Nam Thiệm Bộ cũng được thêm vào. Ở giữa là hình ảnh ba loài thú: chim bồ câu (dụ cho tham), rắn (dụ cho sân), và heo (dụ cho si), hình ảnh giải thoát của chư Phật và cảnh giới Niết-bàn được thể hiện qua những vầng hào quang, hàng phàm phu được minh họa qua với cảnh những chúng sanh chìm nổi trong nước, vòng bên ngoài thể hiện 12 chi phần duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch. Bánh xe này thể hiện mọi chi tiết về cảnh giới luân hồi trong mọi thời, và tất cả bị nuốt bởi (quỷ) vô thường. Ngoài những hình ảnh trên, hai câu kệ nói về sự hành trì theo chánh pháp để điều phục phiền não, vượt thoát cảnh luân hồi cũng nên được khắc bên bánh xe. Cũng theo bản kinh này, mỗi khi đến tinh xá, các vị cư sĩ hỏi về ý nghĩa của hình tượng bánh xe trên, có một số vị Tỳ-kheo không giải thích được. Vì thế, theo lời dạy của đức Phật, các vị Tỳ-kheo bèn chọn những vị tri sự có đầy đủ kiến thức để giải thích cho các vị cư sĩ về ý nghĩa trên mỗi khi họ thắc mắc3.

 Hình ảnh vòng luân hồi trên được thể hiện rõ nét trong các thạch động tại Ấn Độ và rất phổ biến trong các tu viện Trung Hoa và Tây Tạng. Riêng tại Tây Tạng, ngoài hình tượng trên, hình ảnh bánh xe luân hồi mới gồm sáu phần cũng rất phổ biến. Ngoài năm cảnh giới trên, loại hình tượng mới này có thêm cảnh giới A-tu-la, và ngoại trừ cảnh giới loài người, năm cảnh giới còn lại đều xuất hiện hình ảnh đức Quán Thế Âm đại diện cho đức Phật, vì lòng đại bi mà thị hiện để độ sanh. Ngày nay, hình tượng vòng luân hồi thường xuất hiện tại các tu viện Phật giáo Tây Tạng theo lối minh họa sau. Giữa vòng là hình ảnh ba con thú gà trống, rắn, và heo thứ tự ngậm đuôi của nhau. Màu lông của gà trống là màu đỏ tía pha vàng, tượng trưng cho sự nóng bỏng của lửa tham dục. Xét về tính khí, gà trống là loài vật vừa tham nhưng cũng rất kiêu căng, nên được xem là biểu tượng cho tham dục. Miệng gà trống ngậm đuôi của con rắn lục, tượng trưng cho sự tham lam vô hạn của chúng sanh, và chính vì quá tham lam, nên chúng sanh không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, từ đó sân hận phát sanh. Sân hận là độc tố làm tinh thần xung động, làm cho tâm thức luôn âm ỉ hận thù và cuối cùng bộc phát qua lời nói thô lỗ và hành vi thiếu tự chủ. Ác nghiệp như thế cứ mãi tuôn trào, dai dẳng mà không gì ngăn cản được, cũng như cơ thể thuôn dài của rắn. Màu xanh của rắn biểu thị cho sự lạnh lùng, thiếu cảm thông với mọi người. Rắn là một loài vật giết hại loài khác bằng nọc độc và bằng cách bóp nghẹt, đó cũng là đặc điểm của sân. Tiếp theo rắn là một con heo với dáng vẻ nặng nề. Đuôi của heo bị miệng rắn ngậm chặt, và heo nhoài người sang ngoạm đuôi của gà trống. Heo này có màu đen tượng trưng cho si. Vẻ nặng nề của nó biểu trưng cho sự hôn trầm, uể oải của tâm và thân. Heo là một loài tham ngủ và hay tìm thức ăn trong những nơi hôi bẩn, không phân biệt sạch nhơ, cũng như khi đã bị chìm đắm trong vô minh, thiếu chánh kiến, chúng sanh thường tìm cầu dục lạc trong cặn bã danh vọng của cuộc đời. Ba loài thú trên được vẽ trên nền màu xanh da trời để biểu trưng rằng dù tham, sân, si sâu nặng, khó trừ, nhưng bản chất của chúng là không, là vô tự tánh, và chẳng thường còn. Vòng lớn kế tiếp của bánh xe là các cảnh giới chúng sanh, vòng ngoài cùng là các mắc xích tượng trưng cho 12 chi phần duyên khởi. Cả bánh xe này bị một quái vật khổng lồ, tức quỷ vô thường nắm chặt, ám chỉ rằng vạn vật trong vòng luân hồi đều bị vô thường chi phối. 

Đối với Mật tông, cakra được xem là một trong những thuật ngữ phổ biến nhất. Mật tông thường nói về các luân xa (cakra) nằm tại các vị trí trọng yếu trong cơ thể mỗi người. Các luân xa này chính là các trung tâm năng lượng tối quan trọng vì đó là những nơi mà các nguồn năng lượng tinh thần cùng các hoạt động cơ thể thâm nhập và hòa quyện nhau. Cũng chính tại những nơi này, các nguồn năng lượng của cơ thể và vũ trụ gặp gỡ để kết tinh thành những phẩm tính của cơ thể, rồi từ đó những phẩm tính này lại chuyển hóa thành những dòng năng lượng tinh thần của mỗi người4. Bảy luân xa chính trong cơ thể mỗi người mà Mật tông Tây Tạng thường đề cập gồm: Mūlādhāra-cakra (khu vực huyệt Hội âm, khu năng lượng sinh tồn), svādhiṣṭhāna-cakra (khu vực huyệt Quan nguyên, khu năng lượng tính dục), manipura-cakra (khu huyệt Trung quản, nơi giao thoa giữa năng lượng cá nhân và môi trường), anāhata-cakra (khu huyệt Đản trung, khu năng lượng của tình thương), visuddha-cakra (khu huyệt Thiên đột, khu năng lượng của sự giao tiếp), ājña-cakra (khu huyệt Ấn đường, khu năng lượng của ý thức), và sahasrāra-padma (khu huyệt Bách hội, khu năng lượng của trí tuệ). Đôi khi thuật ngữ cakra cũng có nghĩa tương đương với từ mạn-đà-la (maṇḍala). Trong lúc hành thiền, hành giả Du-già thường quán toàn thân như một mạn-đà-la lớn bao hàm nhiều mạn-đà-la nhỏ (luân xa) khác. Ngoài ra, các luân xa còn được xem là những trú xứ của ba thân (Pháp thân, Báo thân, và Ứng hóa thân), hoặc có tương hệ mật thiết với các yếu tố sắc pháp khác.

Khi tìm hiểu về hình tượng bánh xe trong đạo Phật, chúng ta không thể không nhắc đến pháp luân (P. dhammacakka, S. dharmacakra), một trong những hình tượng nghệ thuật độc đáo và là biểu tượng tinh thần cao cả nhất của truyền thống tâm linh này. Pháp luân là bánh xe pháp. Pháp ở đây là nguyên lý hay chân lý mà đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo và sau đó Ngài đã tuyên thuyết cho nhân gian. Thông thường pháp luân được dùng để dụ cho giáo pháp của đức Phật, gồm ba nghĩa chính: tồi phá (Phật pháp có công năng diệt trừ tội ác của chúng sanh), triển chuyển (sự thuyết giáo của đức Phật cũng như bánh xe luôn di chuyển, không dừng trệ lại ở bất cứ người nào hay nơi nào), và viên mãn (giáo pháp của đức Phật viên mãn, tròn đầy như bánh xe)5. Đôi khi, pháp luân cũng còn được gọi là Phạm luân. Theo luận Đại trí độ, chữ phạm này được giải thích theo nhiều cách như sau: 1) Phạm là rộng lớn, đức Phật chuyển pháp luân đến khắp mười phương nên gọi là phạm; 2) Đức Phật dùng bốn tâm phạm hạnh (từ, bi, hỷ, xả) để thuyết pháp nên gọi là phạm; 3) Lúc mới thành đạo, Phạm Thiên đã khuyến thỉnh đức Phật chuyển pháp luân nên gọi là phạm luân; 4) Trong lần chuyển pháp luân của đức Phật tại Ba-la-nại, tôn giả Kiều-trần-như chứng đắc đạo thanh tịnh, nên gọi là phạm luân; 5) Người Ấn thời xưa vốn tôn quí Phạm thiên, vì thế để tùy thuận theo người đời, pháp luân cũng được gọi là phạm luân6; 6) Phạm là thanh tịnh, giáo pháp của đức Phật vốn thanh tịnh nên gọi là phạm; 7) Đức Phật là đấng Đại Phạm, luôn dùng phạm âm để thuyết pháp7. Bộ luận này cũng lý giải về sự khác biệt giữa phạm luân và pháp luân như sau: phạm luân dạy về Bốn tâm vô lượng còn pháp luân nói về Bốn thánh đế, phạm luân dạy rằng nhân bốn tâm vô lượng này mà đắc đạo còn pháp luân dạy rằng nương theo các pháp khác mà đắc đạo, phạm luân chỉ bày về tứ thiền còn pháp luân chỉ bày về ba mươi bảy phẩm trợ đạo, phạm luân dạy tu thiền thánh đạo còn pháp luân dạy tu trí tuệ thánh đạo8. 

Theo kinh Trường Bộ I và bộ Đại Phẩm (Luật Tạng Nam Truyền I), sau khi giác ngộ, theo lời cầu thỉnh của Phạm Thiên, đức Phật đã quyết định đến xứ Ba-la-nại để tuyên thuyết giáo pháp mà mình vừa chứng ngộ được cho năm nhà khổ hạnh vốn là bạn đồng tu của Ngài. Đáp lại câu hỏi của đạo sĩ lõa thể Upaka, đức Phật đã trả lời rằng Ngài đến thành phố Kāsi để chuyển bánh xe pháp, để đánh trống bất tử9. Đây là lời tuyên bố đầu tiên của đức Phật trước khi Ngài chính thức thiết lập vương quốc chánh pháp của mình. Mục đích của đức Phật khi đến xứ Ba-la-nại như thế cũng chính là mục đích mà chư Phật trong nhiều đời đã từng thị hiện trên thế gian này được trình bày trong kinh Pháp Hoa: chỉ bày cho chúng sanh tri kiến của chư Phật và giúp họ thấu hiểu và chứng đạt được tri kiến đó. Kinh Tăng nhất A-hàm cũng nói rằng đức Phật xuất hiện ở đời vì năm mục đích sau: (1) chuyển pháp luân, (2) độ cha mẹ, (3) kiến lập niềm tin cho người chưa có lòng tin, (4) khiến người chưa phát Bồ-tát ý thì phát tâm Bồ-tát, (5) thọ ký cho các vị Phật tương lai10. Cũng từ đây pháp luân trở thành biểu tượng cho chánh pháp của đức Phật.

Việc đức Phật chuyển bánh xe pháp tại Lộc Uyển để gióng lên hồi chuông tỉnh thức, để đánh lên tiếng trống bất tử được xem là một trong bốn sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Ngài cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của đạo Phật11. Thuật ngữ thường dùng để chỉ cho sự kiện này là Chuyển pháp luân (P. dhammacakkappavattana, S. dharmacakra-pravartana). Ngoài ý nghĩa thông thường là chuyển vận bánh xe chánh pháp, thuật ngữ này còn mang ý nghĩa là thành lập vương quốc trí tuệ hay xây dựng vương quốc chân lý12. Vương quốc mà đức Phật đã khai sáng đó không phải được xây dựng trên bạo lực, cường quyền, bánh xe pháp mà Ngài đã chuyển vận cũng không dựa trên sự áp đặt những niềm tin mù quáng, mà ngược lại chúng được thiết lập trên nền tảng tri kiến như thị về cuộc đời và ước nguyện xây dựng một đời sống tâm linh hướng thượng. Điều này được thể hiện ngay trong nội dung bài pháp đầu tiên của Ngài.

Nội dung bài pháp đầu tiên của đức Phật được ghi lại trong rất nhiều văn bản Phật học thuộc các truyền thống khác nhau13. Trong số các văn bản này, kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I, tương ứng với kinh La Ma trong Trung A-hàm), Nidānakathā – chương giới thiệu của bản luận giải kinh Bổn Sanh (jātakatthakathā), kinh Chuyển Pháp Luân (nằm trong Đại Phẩm của Luật Tạng Nam Truyền), kinh Tương Ưng, và kinh Tạp A-hàm là những nguồn tư liệu quan trọng nhất14. Điều đáng chú ý là tuy cùng thuật lại sự kiện chuyển pháp luân của đức Phật, các tư liệu trên lại trình bày khác nhau về nội dung giáo lý mà đức Phật đã giảng dạy. Kinh Thánh Cầu thuật lại rằng tại Lộc Uyển đức Phật đã giảng giải cho năm Tỳ-kheo về sự nguy hiểm của sanh, già, bệnh, chết, ô nhiễm, dục lạc và con đường vượt thoát những triền phược đó để chứng pháp vô sanh, vô nhiễm, vô thượng an ổn, vượt qua các khổ ách, chứng đắc Niết-bàn15. Kinh La Ma thì ghi rằng đức Phật đã thuyết giảng về pháp môn Trung đạo và Bát chánh đạo16. Riêng trong kinh Tương Ưng, chương Tương ưng uẩn (Tương Ưng III) nói rằng đức Phật đã dạy về đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã của năm uẩn17, còn chương Tương ưng sự thật (Tương Ưng V) thì thuật lại rằng ban đầu đức Phật giảng về lý Trung đạo, Bát chánh đạo, sau đó Ngài giảng giải chi tiết về Tứ Thánh đế18. Theo kinh Tạp A-hàm, quyển 15, đức Phật đã giảng pháp Tứ đế cho các Tỳ-kheo tại Lộc Uyển19. Kinh Chuyển pháp luân thì ghi lại rằng đức Phật đã giảng dạy về lý Trung đạo và Tứ đế cho năm người đệ tử đầu tiên của mình. Như thế, tuy các văn bản trên có đôi nét khác biệt, chúng ta vẫn có thể khẳng định một điều là giáo lý chính yếu mà đức Phật đã thuyết giảng lần đầu tiên tại Lộc Uyển là giáo lý Tứ Đế. 

Theo kinh Chuyển pháp luân, ngay sau khi đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên tại Lộc Uyển, chư thiên các cõi trời dục giới tuần tự truyền nhau rằng: “Bánh xe Pháp tối thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Ba-la-nại, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma vương, Phạm thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời”. Liền khi ấy mười ngàn thế giới chấn động, một vầng hào quang tỏa chiếu siêu việt cả hào quang của chư thiên các cõi trời20. Khi nói rằng bánh xe pháp không thể bị “chuyển vận nghịch lại” như thế, đoạn kinh trên đã khẳng định một sự thật là giáo pháp của đức Phật là bất biến, khế hợp trong mọi thời, mọi nơi, lợi lạc cho mọi căn cơ khác nhau. Đây chính là một trong những nét độc đáo nhất của hình tượng pháp luân trong Đạo Phật.

Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở khác nhau. Giáo pháp ấy vốn tự thân đã hoàn bị, sự lý viên dung, và đã được chính đức Phật chuyển vận ngay tại trung tâm văn hóa và tâm linh lớn nhất thời bấy giờ trong vương quốc mà Ngài đang cư trú, đó là thành Ba-la-nại. Nếu như Vương-xá là trung tâm chính trị và kinh tế lớn nhất của vương quốc Ma-kiệt-đà thì Ba-la-nại, một miền đất thiêng nằm trên bờ sông Hằng được mệnh danh là thành phố của thần linh, lại là trung tâm văn hóa và tinh thần quan trọng, là nơi qui tụ của các nhà lãnh đạo tinh thần kiệt xuất nhất thời bấy giờ. Ngay từ khi cùng Xa-nặc từ bỏ thành Ca-tỳ-la, thái tử Tất-đạt-đa đã khẳng khái khước từ mọi uy quyền thế trị để tìm về cội nguồn của sức mạnh tâm linh siêu tuyệt. Chính vì thế, ngay sau khi thành đạo Ngài đã quyết định đến Ba-la-nại, kinh thành tâm linh thời bấy giờ để gióng lên tiếng trống bất tử và chuyển vận bánh xe chánh pháp, mang ánh sáng chân lý vào đời. Từ đây, bổn phận của những thế hệ tiếp nối truyền thống tâm linh ấy là làm sao bảo tồn và tiếp tục chuyển vận bánh xe pháp đến mọi phương trời khác nhau. Ý nguyện này đã được chính đức Phật gởi gắm cho tôn giả Xá-lợi-phất, vị hộ trì chánh pháp đệ nhất, như sau: “Này Sāriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sāriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận”21. (còn nữa)

Chú thích:

1. A. K. Haldar, “Symbolism in Indian Art and Religion”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, Vol. 9, No. 2. (Dec., 1950), p. 125.

2. Sđd, tr. 126.

3. Xem chi tiết về mẩu chuyện này trong Bhikkhu Khantipalo, The Wheel of Birth and Death, The Wheel Publication, No. 147/148/149, Kandy: Buddhist Publication Society, 1970. 

4. Xem thêm A. Govinda, Foundations of Tibetan Mysticism, York Beach, ME: Samuel Weiser, 1982.

5. Phật Quang đại từ điển, tr. 3423.

6. Đại trí độ luận, T25n1509, tr. 245.

7. Phật Quang đại từ điển, tr. 3423.

8. Đại trí độ luận, T25n1509, tr. 245.

9. I.B. Horner (tr.) The Collection of the Middle Length Sayings, Vol. I, Delhi: Motilal, p. 215.

10. T1n25, tr. 699a.

11. Các tư liệu còn lại đưa ra những thời điểm khác nhau về sự kiện này. Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả và kinh Pháp Hoa cho là sau khi đức Phật thành đạo 21 ngày, Thập Địa Kinh Luận ghi là sau 14 ngày, Tứ Phần luật ghi là sau 42 ngày, kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm ghi là sau 49 ngày, Ngũ Phần luật ghi là sau 56 ngày, Luận Đại Trí Độ ghi là sau 57 ngày. Phật Quang Đại Từ Điển, tr. 6619.

12. W. Simpson, The Buddhist Praying-wheel, New Delhi: Oriential Publishers & Distributors, 1978, p.52.

13. Xem Đại Phẩm I (Luật tạng Nam truyền), kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I), kinh Bổn Sanh I, Đại Sử q.3, kinh Phổ Diệu, q. 7, Trường A-hàm kinh, q. 16, Tạp A-hàm kinh, q. 2, Ngũ Phần luật q. 15, Tứ Phần luật, q. 32, kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, q. 11, Phật Bổn Hạnh Tập kinh, q. 34, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinh, q. 3, Phật Sở Hành Tán, q. 3. 

14. Theo truyền thống, hầu hết các nhà Phật học cho rằng bài pháp đầu tiên mà đức Phật đã giảng dạy là kinh Chuyển pháp luân. Tuy nhiên, theo giáo sư Hajime Nakamura, bản kinh này được kiết tập hoàn chỉnh trong thời gian về sau và vì thế nội dung nguyên thủy của bài pháp đầu tiên vốn được trình bày trong kinh Thánh cầu. H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo: Kosei Publishing Co., pp. 241-251. 

15. I.B. Horner (tr.) sđd., tr. 217.

16. Trung A-hàm kinh, q. 56, T1n26, p. 777c.

17. F.L. Woodward (tr.) The Book of the Kindred Sayings, Delhi: Motialal, P. III, pp. 59-60.

18. Sđd., q. V, pp. 356-360.

19. Kinh Tạp A-hàm, T2n99, tr. 107c.

20. I.B. Horner (tr.) The Book of The Discipline, Oxford: The Pali Text Society, 1992, pp. 17-18.

21. C.R. Davids (tr.) The Book of the Kindred Sayings, Delhi: Motialal, P. I, 2005, p. 242.

[Tập San Pháp Luân.38.tr,29.2006]