Sắc và Hạt “Hạ Nguyên Tử” qua bài kệ của thiền sư Vạn Hạnh

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Nhiều năm về trước, tôi đã không đồng tình về nhiều dịch bản cũng như bình giải về bài kệ thơ “Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô...” trước khi thị tịch của thiền sư Vạn Hạnh. Dường như chưa có dịch giả nào đào xới cái vỉa quặng giáo pháp ẩn giấu kín đáo dưới 28 con chữ cô đọng của bài thất ngôn tứ tuyệt ấy.

Như vậy, sắc là không, không là sắc là hệ luận được rút ra từ chân lý duyên khởi, để mà tu tập, để mà hiện quán, để mà thấy để thoát khổ - chứ không phải là một loại triết lý, lại càng không phải để giải thích vũ trụ quan! Ai cũng có thể nói, đạo Phật là đạo không không sắc sắc chính là ở chỗ này đây! Vạn Hạnh cũng thế. Khi thiền sư thấy sắc là chớp nháy, có rồi không... ông làm gì nữa?

Đến đây, chúng ta khảo sát câu thứ hai:

* Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô!
Các vị đã dịch là:
- Cây cỏ xuân tươi, thu não nùng (Mạnh Thát)
- Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng (Thanh Từ)
- Cây cối xuân tươi, thu héo hon (Nguyễn Lang)
- Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời (Mật Thể)
- Cây cối xuân tươi, thu não nùng (Ngô Tất Tố)
- Cây cỏ xuân tươi, héo thu đông (Nguyễn Đăng Thục).

Sau khi hiện quán thấy cái sắc thân này chớp nháy, có rồi không, Vạn Hạnh muốn bổ túc, muốn nói rộng ra cho mọi người cùng hiểu - là ở câu thứ hai này. Vậy đó, ông nói, không phải chỉ nơi bản thân ta, phải thấy đúng bản chất như thực của pháp, đúng với định luật tự nhiên của pháp - mà thiên nhiên ngoại vật cũng phải được thấy đúng như thế. Kìa! Hãy xem! Mùa xuân thì vạn mộc (cây cỏ) sinh trưởng xanh tươi - nhưng đến mùa thu thì chúng khô, vàng, úa rã, tàn tạ... Vậy, xuân vinh, thu khô là định luật tất yếu của đất trời; chúng cũng sinh trụ diệt... như cái sắc thân này chớ có khác gì! Phải hiện quán như thế, thấy đúng như thế, chẳng thủ mà cũng chẳng xả. Ai mà để cho thất tình, lục dục của mình vào đấy để vui, để buồn, để giận, để thương thì quả thật là vô duyên!

Vậy, cái vỉa quặng giáo pháp đã lộ rõ: Hãy để cho pháp giới vận hành tự nhiên theo định luật của chúng. Đến đây, chắc ai cũng thấy rõ, thu hựu khô mà dịch là thu não nùng, thu đượm hồng, thu rụng rời... là đã để cảm xúc riêng tư của mình trùm lên cái tự nhiên tánh của pháp giới! Héo thu đông thì thừa chữ đông, đánh mất cân đối ý trong câu. Thu héo hon thì tàm tạm nhưng cũng đã có nhấp nháy, đã có dấu hiệu, đã có tín hiệu đan xen tình cảm của mình vào trong đó rồi!

Sau khi hiện quán các pháp trong, ngoài đúng như thực tướng rồi, Vạn Hạnh muốn nói gì nữa? Ta hãy khảo sát câu thứ 3:

* Nhậm vận thịnh suy vô bố úy.
Các vị dịch:
- Theo vận thịnh suy không sợ hãi (Mạnh Thát)
- Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi (Thanh Từ)
- Nhìn cuộc thịnh suy không sợ hãi (Nguyễn Lang)
- Sá chi suy thịnh cuộc đời (Mật Thể)
- Tùy vận thản nhiên khi lên xuống (Nguyễn Đăng Thục)
- Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi (Ngô Tất Tố).

Ai dịch cũng nắm được cái khái quát của ngữ nghĩa, không có gì đáng để phàn nàn. Tuy nhiên, tôi muốn bàn đến chữ quan trọng nhất trong câu là nhậm và vận.

* Nhiệm, nhậm đều giống nhau về chữ và nghĩa (Thời Nguyễn, Tự Đức, vì cử tên Hồng Nhậm của ông mà người ta phải đọc nhiệm). Các từ, tự điển đều giải thích nhậm là gánh vác, đảm trách, tín nhiệm, chịu đựng, dùng, mặc kệ... (Nguyễn Văn Khôn). Nơi khác là: Dốc lòng thành, chịu, gánh vác, chịu lấy, việc, dùng, mặc... (Thiều Chửu). Nơi khác: Ôm, đội, gánh vác, mặc kệ, để mặc (Bửu Kế). Còn những nơi khác thì cũng tương tự (như Vĩnh Cao - Nguyễn Phố), nhưng phải được dùng theo nghĩa động từ chứ không phải danh từ.

* Vận, là chở, chuyển đi, dời đi, xoay vần, khí số, sử dụng... (Nguyễn Văn Khôn). Là chuyển động, xoay vần, khí số, sử dụng (Bửu Kế). Là xoay vần, dời chuyển, chở đi... (động từ); sự biến chuyển rủi may, tốt xấu... (danh từ) tương tợ như khí số ở trên (Vĩnh Cao - Nguyễn Phố). Là xoay vần, vận số tốt xấu... (Thiều Chửu).

Đến đây thì ta phải hiểu Vạn Hạnh muốn nói là, sau khi chúng ta hiện quán thấy pháp giới như thị, pháp nhĩ như thị theo luật tắc chung của những định luật vũ trụ thì việc thịnh suy trên cuộc đời này cũng phải được nhìn ngắm như thế, có gì phải sợ hãi? Đừng vì thịnh, trưởng mà vui mừng; cũng đừng thấy suy, phế mà buồn bã. Tất cả đều tùy thuộc vận, khí, số, thời (biệt nghiệp, cộng nghiệp, nội duyên, ngoại duyên) chúng quyết định, chúng sẽ có luật tắc riêng của chúng. Phải chủ động, phải có trách nhiệm, phải gánh vác, phải nắm lấy cái vận, khí, số, thời ấy trong tay mình mà hoạt dụng, mà quyền biến - dù nó suy hay thịnh... Đến ngang đây, chúng ta thấy các vị dịch đều đúng cả: Theo vận, mặc cuộc, nhìn cuộc, sá chi, tùy vận... đều đúng cả; nhưng có một điều đáng tiếc. Đáng tiếc là, nếu theo, nhìn, tùy... thì chúng thiếu yếu tố tích cực! Còn mặc, sá... thì có nghĩa tích cực, nhưng chỉ tích cực có một nửa! Lại còn có vẻ phó mặc chúng, kệ chúng - mà theo thiển nghĩ, vị thiền sư tu hành đạo cao mà dung cả tam tế như Vạn Hạnh - ngài không nói như thế, không có thái độ như thế trong phong cách hành xử hoặc ngôn ngữ của mình đâu! Bất cứ câu thơ dịch nào từ xưa đến nay đều đã bỏ quên nghĩa tích cực toàn phần - là chủ động, là nắm lấy chúng trong tay mình mà tùy nghi, tùy thời, tùy duyên, tùy việc! Như thế, cái vỉa quặng giáo pháp tùy pháp, thuận pháp đã hiện ra - như mọi người đều đã hiểu - tuy nhiên, phải thêm cái nghĩa đảm nhận, gánh vác, đại dụng hiện tiền quyền tại thủ nữa mới nói lên hết nghĩa tích cực của nó.  Và chính câu 3 này, mới nói lên được triết lý hành động, thái độ nhập thế tích cực của ông: Làm tất cả mọi sự, giúp vua, giúp nước, dạy dỗ đồ chúng mà tâm không cần dính vào đâu cả  Mặc dầu thấy thân vô thường, cảnh vô thường nhưng trước việc thịnh suy thành bại, tâm thiền gia vẫn “vô bố úy”, vẫn trạm nhiên bất động, vẫn an nhiên làm mọi sự trong thế giới có-không, sinh-diệt ấy.

Đến chỗ này thì cho chúng tôi xin được bàn xa một chút về giáo pháp.

Trong kinh điển gần với Nguyên thủy nhất, như Theravāda - tu tập Vipassanā, khi hiện quán danh, sắc (như các trí đã nói ở trên) - khi thấy pháp sanh diệt nhanh quá, hành giả đâm ra sợ hãi, nhàm chán, khởi tâm xuất ly chúng, yểm ly chúng. Lưu ý, đây chỉ là tiến trình trên lộ trình thánh đạo. Vì nhờ khỏi tâm yểm ly chúng, xuất ly chúng, nhàm chán chúng, hành giả mới có được cái trí muốn giải thoát, gọi là “dục giải thoát trí”(muñcitukamyatāñāṇa), sau đó mới có được trí phân tích (paṭisaṅkhāñāṅna), rồi trí hành xả (saṅkhārupekkhāñāṇa). Trí hành xả là vì sau khi thấy mọi danh sắc đều có trạng thái vô thường, dukkha vô ngã - nên giữ được tâm bình đẳng, trạm nhiên đối với tất cả pháp hữu vi, không tham ái mà cũng không chán ghét chúng. Đây là trí quân bình tuyệt hảo, để từ đó nhìn đúng, thấy đúng thực tướng của danh sắc, không chấp thủ bên này, không chấp thủ bên kia, đúng như câu kệ Pháp cú: Không bờ này, bờ kia; cả hai bờ không có; lìa khổ không trói buộc; ta gọi Bà-la-môn! Và từ đó, tùy duyên mà hóa độ chúng sanh. Như trong Hạnh phúc kinh đức Phật đã dạy: “Khi xúc chạm việc đời, tâm không động không sầu, tự tại và vô nhiễm, là phúc lành cao thượng”. Cũng vậy, người tu Vipassanā tương tợ như Vạn Hạnh, sau khi thấy rõ tất cả đều vô thường, sanh diệt thì không còn sợ hãi chúng nữa mà nắm chúng trong tay, thuận pháp, tùy pháp để giúp ích cho con người, cho cuộc đời!

Thế là chúng ta đã đi qua được 3 câu, còn câu thứ 4 nữa.

* Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Các vị dịch:
- Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương (Mạnh Thát)
- Thịnh suy như cỏ hạt sương đông (Thanh Từ)
- Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương hồng (Nguyễn Lang)
- Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành (Mật Thể)
- Xuống lên ngọn cỏ hạt sương trong (Nguyễn Đăng Thục)
- Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông (Ngô Tất Tố).

Cái khái quát thì nó vậy. Tuy nhiên, thú vị nhất trong câu này là chữ lộ mà ai cũng nghĩ là sương, là hạt sương, giọt sương...(như từ điển Nguyễn Văn Khôn); cho nên ai cũng dịch là sương cả. Ta thử đi qua một số từ và tự điển. Lộ là hạt móc - những hạt hơi nước rơi xuống lúc ban đêm mát trời (Bửu Kế). Lộ: Móc. Hơi nước gần mặt đất, đêm bám vào cây cỏ, gặp khí lạnh tụ lại từng giọt gọi là móc (Thiều Chửu). Lộ: Móc. Cây cỏ đất đá trên mặt đất nhân khí nóng mà bức xạ, lại gặp lạnh đến quá mau, khiến không khí khi tiếp xúc với chúng bị ngưng kết thành hạt nước bám vào chúng gọi là móc. Chỗ này, tác giả (Vĩnh Cao - Nguyễn Phố) còn chịu khó dẫn câu thơ của Đỗ Phủ: Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm (Những hạt móc như ngọc rơi rụng trong rừng cây phong). Như vậy là đã rõ, lộ là hạt móc. Móc khác với sương. Móc thì đọng lại còn sương thì lay bay. Thịnh suy giống như hạt móc phô trên đầu ngọn cỏ. Đây là cái nhìn trạm nhiên, thanh tịnh, đúng như hiện thực đang là. Chúng sao thì nói vậy chứ không có nghĩa đẹp (sương hồng) cũng chưa có ý định nói là nó rơi (sương rơi đầu cành). Chúng ta hãy nhìn hạt móc trên đầu ngọn cỏ (thảo đầu) thử xem. Nó có đấy chứ. Nó có đấy nhưng mong manh làm sao. Nó có đấy nhưng không biết sẽ rơi lúc nào, sự sống của nó ngắn ngủi lắm. Chỉ cần một vệt nắng, một làn gió, một chiếc lá rơi khẽ, một con chim lơ đễnh đụng nhằm (ngoại duyên) thì nó tan ngay! Có đó là không đó ngay. Thịnh, có đó chứ! Suy, có đó chứ! Nhưng thoáng chốc thôi - khi vận, lực, số, khí, thời... chuyển đổi, duyên khởi liên tục, vận hóa liên tục, cái này sang cái kia... như Lão Tử nói: Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu! Hoặc Dịch nói, cực âm, quá độ thái âm là thiếu dương, thiếu dương rồi thái dương, thái dương rồi thiếu âm! Chúng luôn luôn đi tìm sự quân bình - nhưng nếu quân bình thì vũ trụ sẽ ngưng dứt, tuyệt đối tĩnh chỉ, diệt vong! Đông Tây người ta đều hiểu điều này, ví như thuyết bảo toàn năng lượng! Định luật tâm, định luật pháp đều như thế. Cũng vậy, không những thịnh suy, mà tất thảy pháp hữu vi khác trên thế gian đều phải chịu chung định luật sinh diệt, có không tất yếu ấy!

Viết đến ngang đây tôi cảm giác có cái gì đó lành lạnh như cơn gió hư vô thổi qua: Cái thân sắc chớp nháy của mình đây và cả những được mất, thành bại, hơn thua trên cuộc đời này - như hạt móc phơi trên đầu ngọn cỏ kia không biết sẽ rơi rụng lúc nào? Ôi! Cái tầng ngữ nghĩa ẩn giấu bên dưới 28 con chữ, mà sao dạy cho người đời, cho hậu thế quá nhiều điều đến vậy? Chỉ một cái sắc chớp nháy mà Vạn Hạnh đã nói được toàn bộ giáo pháp, đồng thời, đưa ra được triết lý hành động, nhập thế tích cực của mình nữa. Tri và hành là một. Vạn Hạnh muốn nhắn gởi với hậu học trước lúc ra đi - bằng ngôn giáo, thân hành suốt cuộc đời: Thấy cái sắc chớp nháy để giải thoát tất cả khổ và rồi chính mình đã làm một vị kiến trúc sư xây dựng triều đại nhà Lý, phụng sự suốt ba đời vua, đưa xã hội và con người sống cuộc đời thuần từ, hiền thiện - không là điều đáng cho thời đại này phải đăm chiêu, suy gẫm một chút xíu hay sao?

Ôi! Cũng là sắc ấy, bây giờ là hạt hạ nguyên tử, khoa học đã khổ công tìm kiếm, nhưng mục đích dường như hoàn toàn lệch chiều, sai hướng. Đạo Phật hướng nội, khoa học hướng ngoại. Cái sắc hướng nội để thoát khổ. Hạt hạ nguyên tử hướng ngoại hầu chinh phục, sử dụng thế giới vi mô nhằm phụng sự văn minh. Chúng ta không thể phủ bác những giá trị to lớn do khoa học đem lại cho xã hội, cho con người... nhưng mà sao nó đáng sợ đến thế! Tiện nghi, vật chất xa hoa, hào nhoáng, sung mãn quá thì con người sẽ tha hóa, sẽ đam mê vật chất mà bỏ quên các giá trị tinh thần (văn hóa và tâm linh)! Nguy hại nhất là cả hành tinh đều bị ô nhiễm. Và kinh khiếp nhất là chỉ cần một nút bấm là nhân loại sẽ diệt vong...

Nói tóm lại, 4 câu kệ của thiền sư Vạn Hạnh không những có giá trị văn học, thiền học, mỹ học mà còn hơn thế nữa... là cả một nền tảng tâm linh cho người học Phật và cả thế gian nương tựa. Bài thơ đẹp và kỳ vĩ quá! Và ai dịch cũng được cả. Được ở chỗ, ai cũng hiểu điều Trang Tử nói, được cá quên nơm, lấy ý quên lời! Tôi cũng không thể dịch khác, dịch hay hơn được. Chỉ mong rằng, có nhà thơ nào đó, có cách dụng ngữ tài hoa hãy dịch nó sát nghĩa, gần với giáo pháp hơn một chút là quý lắm rồi! Trân trọng!

Huyền Không Sơn Thượng
Am Mây Tía, 10-13, Xuân Kỷ Sửu

Chú Thích:
1. Có một loại sắc do tưởng mà có. Ví dụ, hôm qua mình giận một người, hôm nay vừa tưởng nghĩ đến người ấy (sắc - sắc quá khứ) thì cơn giận nổi lên. Nếu hiện quán thì sắc ấy không có trong hiện tại, chỉ do tưởng mà hình thành; sắc ấy vốn không có mà mình lại khổ, kỳ quá chứ? Hình ảnh, mùi vị, âm thanh... (sắc) quá khứ, vị lai đều như vậy cả. Chúng ta khổ là vì thấy sai với chân lý.
2. Có 5 định luật. Thế giới vật lý vô cơ (utuniyāma), thế giới sinh vật lý hữu cơ (bijaniyāma), về pháp (dhammaniyāma), về tâm (cittaniyāma), về nghiệp (kammaniyāma).
3. Bài kệ truy tặng Vạn Hạnh của Lý Nhân Tông: “Vạn Hạnh dung tam tế. Chơn phù cổ sấm ky. Hương quan danh Cổ Pháp. Trụ tích trấn vương kỳ”.
4. Vạn Hạnh dặn dò đệ tử trước giờ thị tịch: “Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ”.
5. Chứ không phải nghĩ oan cho các vị A-la-hán khi nói rằng: Các ngài nhàm chán sinh tử, sợ hãi sinh tử nên muốn ly thoát sinh tử!
6. Dukkha thường được dịch là khổ, không nói hết nội hàm của nó. Tóm tắt, nó có 3 nghĩa chính. Một, tất cả những biến đổi về sinh vật lý cơ thể, đưa đến mệt mỏi, đau nhức, suy nhược, bệnh hoạn, già yếu, tử vong... Hai, những biến đổi, thay đổi các tâm trạng, tâm lý, như: Khổ lạc, thương ghét, buồn vui, uất ức, sầu muộn, chán nản, ước vọng, hy vọng, tuyệt vọng, hận thù... Ba, là cái gì khó chịu đựng, khó kham nhẫn, đáng khinh miệt, hư vô, trống rỗng, ảo ảnh, khó nắm bắt...
7. Nhiều người hiểu lầm khi nói rằng, A-la-hán chứng được ngã không nhưng còn chấp pháp. Quả là quá ngây thơ. Tu Tứ niệm xứ, Vipassanā quán ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi, ngã và pháp -  thì tất cả chúng đều không, (duyên khởi nên không, vô ngã); ý niệm về giải thoát cuối cùng cũng không dính mắc. Lại còn nói rằng A-la-hán tu Tứ Đế, Duyên Giác tu Thập nhị duyên khởi. Lại càng ngây thơ hơn nữa. Vì cả ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi đều nằm trọn vẹn nơi Tập Đế - chúng chính là nguyên nhân tất cả khổ, không hiện quán chúng thì không thể giải thoát các khổ được. Lại nữa, đức Phật, Duyên Giác hay A-la-hán đều phải tu Tứ Đế; và ai cũng phải quán ngũ uẩn, duyên khởi cả, sâu hay cạn mà thôi! (Kinh Chuyển Pháp Luân).

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
[Tập san Pháp Luân - số 61, tr64, 2009]