Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sàriputta - Phần 2

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

(Cuộc đời và ánh đạo của Tôn giả Sariputta - tiếp theo TSPL.5)

3. Sự xuất ly gia đình

Lúc bấy giờ tại thành Vương-xá có tổ chức đại hội Bà-la-môn, hai làng Upatissa, Kolita đã đề cử hai chàng Sāriputta và Kolita đại diện cho hai làng đi tham dự. Thành Vương-xá là một kinh đô hoa lệ, thịnh vượng bậc nhất nước Ma-kiệt-đà và của cả xứ Ấn Độ. Nơi đây là điểm giao lưu thương mại kinh tế và văn hóa của các nền văn minh Indus cổ với các tiểu quốc miền Đông và Nam của Ấn Độ. Đây cũng là kinh đô hội tụ rực rỡ của tâm linh tôn giáo. Nhân lễ đại hội, hàng trăm học thuyết, triết thuyết tôn giáo đều qui tụ về. Tất cả những gì hay đẹp trong tế lễ, hội họa, thi ca, múa hát… cũng được tổ chức biểu diễn ở khắp mọi nơi, quả là một khung cảnh náo nhiệt, vui vẻ đầy hân hoan chưa từng thấy xưa nay. Ngày tranh luận bắt đầu, hai chàng đã chứng kiến được rất nhiều giáo phái với những cách ăn mặc phục sức khác nhau, những tư tưởng vô cùng đa dạng và khác biệt; biết bao nhiêu là học thuyết, triết lý cùng nhau đưa ra quan điểm của mình, nào là phái Thắng luận, phái Số luận, phái Khổ hạnh, phái Ngụy biện v.v… nào là những chủ thuyết Duy tâm, Duy vật, Duy lý, Duy thực… Có những học thuyết, những chủ trương trái ngược hẳn với truyền thống của thánh kinh mà hai chàng đã được học. Có những học thuyết bác bỏ thượng đế thần linh, mọi hình thức nguyện cầu tế lễ. Có những chủ thuyết vô thần chủ trương hưởng thụ, cho rằng chết là hết, cứ mặc sức mà hưởng thụ bất cứ điều gì, không có gì là tội, là phước… Chứng kiến những gì diễn ra trong buổi lễ, tâm của hai chàng càng thêm thắc mắc và hoài nghi cực độ. Ba ngày lễ hội đã đi qua, khung cảnh tươi đẹp lúc đầu không còn nữa, thay vào ấy chỉ là những rác rưởi, những điêu tàn khi tan cuộc.

Trong những ngày du ngoạn và tham dự đại hội Bà-la-môn, cả hai chàng đều hoang mang cực độ. Cả hai đều cảm nhận rằng mọi giáo phái, học thuyết… đều mang những bản chất tranh giành, hơn thua kinh khiếp, không chân thật. Kiếp người mong manh, tụ tán, vui buồn, khóc cười theo những trò giả ảo của thế nhân. Trong tâm hai chàng đều có ý muốn thoát ly cuộc sống gia đình, cuộc sống ràng buộc đầy khổ lụy của thế gian.

Sau khi tham dự đại hội trở về, Sàriputta vẫn trầm tỉnh như không có việc gì xảy ra. Thân phụ chàng nhìn con trai trưởng của mình lớn lên với tư cách đạo đức hơn người, uyên bác, thông minh siêu việt, lại cũng đã kế thừa sự nghiệp giáo hóa môn sinh, tiếp nhận đồ chúng cũng như kế thừa mọi truyền thống viên mãn nên ông rất hài lòng. Cả hai ông bà đều tính chuyện lo gia thất cho chàng. Vốn là người thông tuệ, chàng đã cảm nhận và từng nghiên cứu qua những niềm vui về tinh thần và vật chất mà đấng tối cao đã dạy trong thánh điển, cộng với hoài bảo muốn thoát ly của mình, chàng đã từ chối lời yêu cầu của cha mẹ và cầu xin cha mẹ cho mình được xuất gia tầm đạo giải thoát. Bằng mọi hình thức ràng buộc của gia đình, của truyền thống, danh dự, cũng như sự giàu sang… bố mẹ chàng đã tìm mọi cách phủ dụ, khuyên can cũng như buồn thảm và khóc lóc… không cho đứa con yêu kính của mình từ bỏ những quyền uy, danh vọng, giàu sang, ước vọng, ước nguyện của mình mà dấn thân vào con đường đói khổ, lang thang rày đây, mai đó của đời sống xuất gia, xin từng chén cơm thừa, canh cặn bố thí của thế gian.

Thế nhưng, ý chàng đã quyết và không gì lay chuyển được, chàng đã đi đến gặp thân phụ, và đứng vòng tay thưa xin cha mẹ cho xuất gia, nếu không chàng sẽ đứng mãi ở đấy đến chết… Nhìn con mình đứng trân, sắc mặt tiều tụy, không uống không ăn suốt hai ngày qua, đôi chân đã run lên sắp quỵ và té xỉu, ông bà đã khóc nhiều, khuyên nhiều nhưng không sao lay chuyển được ý chí xuất trần của con, nếu không đồng ý chắc chắn chàng sẽ chết dần, chết mòn trước mặt; cuối cùng, ông bà đã đồng ý cho chàng xuất gia.

Kỳ diệu thay, Kolita ở làng bên cạnh cũng phải trải vô vàn khó khăn mới được gia đình cho xuất gia. Vì mục đích giải thoát cao cả, hai chàng đã gạt nước mắt đảnh lễ cha mẹ, từ bỏ tất cả danh vọng, quyền uy cũng như sự giàu sang của gia đình, chủng tộc để dấn thân vào con đường tầm đạo.

Khi hai chàng ra đi thì có gần 250 môn sinh cũng nguyện xin theo hai chàng xuất gia tìm chân lý. Sàriputta và Kolita đều suy nghĩ rằng lâu nay mình chỉ học các giáo phái, học thuyết thuộc truyền thống nên bị bó buộc trong khuôn khổ không thể nào thoát ly ra để thấy được các chủ trương hay của các học thuyết khác. Từ ý nghĩ sáng suốt đó, hai chàng quyết định tìm đến học hỏi những giáo phái ngoài truyền thống Bà-la-môn. Hai chàng đã tìm đến các triết gia, các nhà tư tưởng, nhà ngụy biện… nhưng hai chàng càng cay đắng nhận ra rằng: Mọi học thuyết, giáo phái chỉ là sự tập hợp đông đúc, mang hình thức bên ngoài, ồn ào, hỗn loạn… Ai cũng muốn lập tông, lập giáo, dạy đạo, chỉ là những trưng bày và khoa trương. Bọn thì được các phú thương ủng hộ, bọn thì được các tiểu vương hậu thuẫn, bọn thì mưu đồ chính trị thế quyền, v.v…

Cuối cùng thì hai chàng cũng tìm được một đạo sư nổi tiếng đương thời với nhiều tư tưởng và học thuyết lỗi lạc; đó là đạo sư Sanjaya. Hai chàng và gần 250 đồ chúng của mình đã đồng ý làm môn đệ của vị đạo sư này, điều đó làm cho giáo phái của đạo sư Sanjaya càng nổi tiếng thêm lên. Nhưng sau một thời gian học tập tư tưởng chủ đạo của Sanjaya, Sàriputta và Kolita nhận ra rằng đây cũng chỉ là một học thuyết “bất khả tri”, không mang lại chút ánh sáng chân lý nào cho mình. Vì vậy, hai chàng lại quyết định ra đi, tiếp tục hành trình tầm đạo, mặc dù vị đạo sư Sanjaya cố nài nỉ hai chàng ở lại để giao tất cả đồ chúng mà ông đã từng hướng dẫn lại cho hai chàng.

Từ đây, hai chàng dấn thân vào cát bụi của xứ Ấn khắc nghiệt. Nghe nơi nào có một đạo sư lỗi lạc, hai chàng liền tìm đến để tham vấn, hỏi đạo. Cái băng giá của miền Tuyết Sơn hay cái nóng bỏng của vùng sa mạc, cái hừng hừng khô khát của miền nhiệt đới… gót chân của hai chàng quí tộc đều trải qua. Nhưng hình bóng vị đạo sư chân chánh và ánh sáng giác ngộ vẫn còn xa vời, chưa tìm thấy được.

4. Hội ngộ chân lý

Sau khi chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề thành Đẳng Chánh Giác, nhớ lại lời nguyện xưa, đức Thế Tôn trở lại Ma-kiệt-đà để độ vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la). Vua Bimbisàra vô cùng vui mừng, kính phục bậc Đại-giác đã xin thọ Tam qui Ngũ giới, làm một Phật tử tại gia. Đồng thời Ông phát tâm dâng cúng tinh xá Trúc Lâm cho đức Phật và chư Tăng. Từ đây, đạo Giác ngộ và hình bóng giải thoát của chư Tăng đã có mặt trên quốc gia này.

Một hôm trên đường tầm đạo trong thành Vương-xá, Sàriputta thấy một vị sa-môn y bát trang nghiêm, dung nghi từ tốn, gương mặt trầm tĩnh với hình bóng uy nghi giải thoát, từng bước có chánh niệm đang khất thực trên đường. Chưa bao giờ chàng thấy một vị sa-môn nào có một hình dáng đơn sơ vĩ đại như vậy. Dự định chạy đến hỏi đạo, nhưng cái gì đó quá trang nghiêm làm chàng cứ từ từ theo sau vị sa-môn này. Khi ấy cũng đã khất thực xong, vị sa-môn hướng đến một nơi vắng vẻ, dưới một gốc cây to có bóng mát để thọ thực. Như hiểu được ý của vị sa-môn, Sàriputta nhanh nhẹn dùng tọa cụ của mình trải xuống một nơi an tịnh và mời vị sa-môn ngồi thọ thực; sau khi thọ thực xong, chàng dùng nước và tăm xỉa răng của mình mời vị sa-môn dùng. Mọi việc xong xuôi, Sàriputta liền trình bày ước nguyện của mình và cầu xin vị sa-môn chỉ dạy đạo giải thoát, vì chàng chắc rằng đây thực sự là bậc đã giải thoát mọi sự ràng buộc. Vị sa-môn từ tốn giải thích rằng Ngài là đệ tử của đức Thế Tôn, tên là Assaji (A-thị-thuyết, là một trong năm vị A-la-hán đầu tiên) chỉ mới xuất gia nên chưa hiểu gì nhiều về đạo giải thoát. Do quá khát ngưỡng chánh pháp giải thoát, Sàriputta cầu xin Ngài chỉ dạy cho chàng dầu là một câu kệ ngắn cũng được, thế là tôn giả Assaji đọc bài kệ về Duyên khởi cho Sàriputta nghe:

Các pháp do nhân-duyên sanh, cũng do nhân-duyên diệt,
Ðức Phật của chúng ta, thường dạy nói như vậy.
(Chư Pháp tùng duyên sanh, diệc tùng nhân duyên diệt
Ngã Phật Đại Sa môn, thường tác như thị thuyết).

Với trí tuệ đã chín muồi, khi nghe xong bài kệ, Sàriputta liền tỏ ngộ, toàn thân rúng động chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn. Sau đó, tôn giả Assaji khuyên Sàriputta hãy đến tinh xá Trúc Lâm diện kiến đức Thế Tôn để học đạo giải thoát.

Với tâm vô cùng hân hoan, Sàriputta chí thành đảnh lễ từ tạ tôn giả Assaji, chàng trở về gặp hiền đệ Kolita. Thấy sàriputta với vẻ mặt rạng rỡ chưa từng thấy, Kolita ngạc nhiên hỏi duyên cớ, Sàriputta đã kể lại nhân duyên kì ngộ cùng tôn giả Assaji. Sau khi nghe xong bài kệ, Kolita cũng tỏ ngộ chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn.

Không muốn riêng mình nhận được giáo pháp bất-tử, hai chàng nghĩ về đạo sư cũ và các môn đệ của mình. Sàriputta và Kolita đã trở lại báo tin cho họ rằng mình đã tìm thấy đạo giải thoát, và khuyên họ cùng mình đến tinh xá Trúc Lâm diện kiến đức Như Lai; Nhưng nghiệp duyên còn nặng, vị đạo sư này không nghe còn dụ hai chàng ở lại để trao đồ chúng cho hai chàng lãnh đạo… Khuyên không được Sanjaya, hai chàng đã từ giả ông ra đi. Hơn 250 đồ chúng của Ông cũng đi theo hai vị huynh trưởng thông tuệ của mình để học đạo giải thoát. Nhìn đồ chúng của mình lần lượt ra đi, Sanjaya quá uất ức hộc máu mà chết.

5. Trở thành đệ tử của đức Thế Tôn

Khuyên không được vị thầy cũ, Sàriputta và Kolita dẫn hơn 250 môn đệ đến tinh xá Trúc Lâm. Khi vào đến giảng đường, hai chàng cùng các môn đệ đồng quì xuống cầu xin đức Thế Tôn nhận làm đệ tử, xuất gia trong đạo giải thoát của Ngài. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu của họ, liền nói: Etha bhikkhave (Thiện lai Tỳ-kheo), đức Thế Tôn vừa dứt lời cả hai chàng cùng hơn 250 môn đệ đều đầy đủ y bát, mang hình bóng xuất trần của những bậc Tỳ-kheo. Sau đó, đức Thế Tôn thuyết pháp cho các vị tân Tỳ-kheo; thời pháp vừa dứt, lạ lùng thay tất cả đều chứng quả Vô sanh (A-la-hán), chỉ riêng Sàriputta và Kolita đều không chứng thêm thánh quả nào. Mãi đến một tuần sau Kolita nỗ lực tu tập mới chứng được thánh quả A-la-hán, còn Sàriputta nửa tháng sau mới chứng đắc quả vị Vô sanh, trở thành bậc có trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Thanh văn của đức Phật.

Truyền thống của Đại thừa Phật giáo đã kể lại sự chứng đắc thánh quả A-la-hán của tôn giả Sàriputta như sau:

Sau gần hai mươi năm ẩn mình trong tàng kinh các để nghiên cứu tất cả mọi học thuyết, Câu-hy-la, người cậu của tôn giả Sàriputta đã xuất quan ra khỏi tàng kinh các trở thành người thông biện, chưa ai biện luận thắng ông được. Khi biết người cháu mình đã xuất gia theo đức Phật, ông nghĩ rằng nay ta đã là người biện luận giỏi nhất và dĩ nhiên cháu ta sẽ không bằng ta, ta sẽ biện luận để thu phục sa môn Cù Đàm (đức Phật), như vậy cháu ta và mọi người mới hoàn toàn kính phục ta. Nghĩ là làm, ông đã đến gặp đức Phật. Lúc bấy giờ, đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, tôn giả Sàriputta đang đứng hầu bên cạnh. Phạm chí Câu-hy-la thấy cơ hội tốt đã đến, ông liền hỏi để chất vấn đức Thế Tôn:

-“Này sa môn Cù Đàm, người không chấp ngã, chấp pháp. Ý ông nghĩ sao?”

Đức Thế Tôn không trả lời mà vặn hỏi lại ông:

-“Này Phạm chí, ông bảo rằng ông không chấp ngã, chấp pháp, vậy ông có chấp vào cái tri kiến không chấp ngã, chấp pháp của ông không?”.

Ngay câu hỏi vặn của đức Thế Tôn, Phạm chí Câu-hy-la thất kinh tự biết mình đã thua, toàn thân toát mồ hôi nhưng vẫn tự kiêu nên vặn hỏi lại để trả lời:

-“Này sa môn Cù Đàm, người không chấp ngã, chấp pháp cũng không chấp vào tri kiến không chấp ngã, chấp pháp. Ý ông nghĩ sao?”

Đức Thế Tôn liền trả lời:

-“Này ông Phạm chí, ông bảo ông không chấp ngã, chấp pháp, cũng không chấp vào tri kiến không chấp ngã, chấp pháp; vậy hà cớ gì ông đến đây để chất vấn Như Lai?”.

Ngay khi câu hỏi của đức Thế Tôn vừa dứt, phạm chí Câu-hy-la liền tỏ ngộ chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn, và xụp lạy xin đức Thế Tôn cho làm đệ tử xuất gia tu tập. Tôn giả Sàriputta đang đứng hầu sau đức Thế Tôn, cũng ngay nơi câu trả lời ấy liền hoát nhiên đại ngộ, chứng được thánh quả A-la-hán.

Ngay buổi chiều hôm tôn giả Sàriputta chứng đắc thánh quả A-la-hán, đức Thế tôn đã tập hợp hàng ngàn vị Tỳ-kheo và cư sĩ tại gia đến tinh xá Trúc Lâm để tuyên bố: “Từ đây, Như Lai đã có hai vị Đại đệ tử, là hai vị trưởng tử của Như Lai, đó là tôn giả Sàriputta và tôn giả Kolita. Sàriputta là đệ nhất đại đệ tử và Kolita là đệ nhị đại đệ tử. Họ sẽ là hai cánh tay trợ thủ đắc lực cho Như Lai, được quyền thay mặt Như Lai giải quyết tất cả mọi lãnh vực thuộc về Phật sự hay Tăng sự”. Toàn thể đại chúng thảy đều kinh ngạc và thắc mắc: Tại sao những tôn giả, trưởng lão như nhóm năm ngài Kiều Trần Như, nhóm ngài Yasa, hay nhóm 30 Tỳ-kheo ở Chư Tiên đọa xứ v.v… không được làm trưởng tử, mà hai tôn giả Sàriputta và Kolita còn trẻ, mới xuất gia cũng như mới chứng đắc thánh quả… lại được vinh dự ấy?

Biết được tư tưởng của đại chúng, đức Thế Tôn đã thuyết giảng cho đại chúng nghe về những nhân duyên, sự phát nguyện của hai tôn giả trong tiền kiếp, cũng như những tài năng và quả vị mà hai tôn giả đã chứng đắc trong hiện tại…Toàn thể đại chúng đều dứt mọi nghi ngờ và thảy đều kính phục hai tôn giả.

Trí Lộc.(Còn nữa)

[Tập san Pháp Luân - số 6]