Tứ nhiếp pháp

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Đây là bốn phương pháp thu phục đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bàn, từ tà kiến sai lầm trở về chánh kiến mà đức Đạo sư dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát.(TĐT)

II . TỨ NHIẾP PHÁP THEO KINH LUẬN ĐẠI THỪA.

Theo kinh luận Đại thừa thì giá trị của Tứ nhiếp pháp được nâng cao hơn trong việc thực hành Bồ-tát đạo để hoàn thành giác hạnh viên mãn cho quả vị Phật của các hàng Bồ-tát, nên tự thân giá trị của nó phải được đặt nặng trong việc lợi tha vô điều kiện dành cho cả hai hàng Bồ-tát xuất gia cùng tại gia. Vì vậy cho nên cũng cùng Tứ nhiếp pháp nhưng có sự sai khác về phương pháp hành nhân cũng như kết quả của nó tùy thuộc vào thuộc tính của Tiểu thừa và Đại thừa: Đó là có điều kiện giới hạn trong nhân quả, và vô điều kiện giới hạn trong nhân quả. Theo kinh Ưu-bà-di Tịnh hạnh pháp môn, quyển thượng, đức Đạo sư đã kể về Ngài khi còn làm người thường thực hành Tứ nhiếp pháp: “… Bố thí, Ái ngữ, Lợi ích (lợi hành), Đồng sự để nhiếp hóa chúng sanh mỗi khi có bất cứ chúng sanh nào muốn tìm cầu điều gì Ngài cũng đáp ứng những yêu cầu của họ mà không làm trái lại với ý của họ. Nhờ công đức vô điều kiện này mà Ngài đã tích tụ thiện nghiệp sâu rộng cho đến khi chỉ còn một đời cuối cùng là “nhứt sinh bổ xứ” trong thời gian này Ngài thường hưởng nhạc Trời và khi sinh xuống thế gian này đạt được hai tướng đại nhơn đó là: Tay chân mền mại, các ngón tay chân liên kết bỡi một màn da mỏng (man võng). Vì hai tướng này, nếu là người ở tại gia thì làm Chuyển luân Thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ, nếu là người xuất gia thì đạt được ngôi vị Pháp vương, khéo nhiếp phục tất cả vô lượng chúng sanh, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhơn, phi nhơn v.v…”. Lúc bấy giờ đức Đạo sư nói kệ cho các vị Ưu-bà-đi rằng:
“Tu bố thí, ái ngữ                               
  Hành lợi ích, đồng sự
Thường dụng Tứ nhiếp pháp                
Nhiếp tất cả chúng sanh.
Nhờ hành thiện nghiệp này                  
Thường sanh vào Trời Người
Nếu sinh ở thế gian                             
Được hai tướng đại nhơn.
Chân tay đều mền mại                         
Có màn da liên kết
Thật cực mỏng vi diệu                         
Ngoài vàng trong màu hồng.
Vì nhờ hai tướng này                           
Tại gia Chuyển luân vương
Nếu hóa bằng pháp thiện                     
Tất cả đền hành theo.
Thọ trì chắc không phạm                     
Vui vẻ tán Thánh vương
Thi ân không cầu đáp                          
Lòng từ trải bốn phương.
Nếu xa lìa năm dục                             
Xuất gia được thành Phật
Vì chúng sanh nói pháp                       
Người nghe cúi đầu nhận.” 

Đây là Tứ nhiếp pháp mà đức Đạo sư đã từng thực hành trong quá khứ khi còn làm người trong lúc hành Bồ-tát đạo. Những kết quả có được trong hiện tại chính là những tác nhân mà Ngài đã từng hành Bồ-tát đạo trong quá khứ đã thực hiện qua Tứ nhiếp pháp không điều kiện vì chúng sanh mà nhiếp hóa đưa họ về chánh đạo như Ngài.

Và cũng theo Đại tập kinh quyển thượng, đức Đạo sư dạy tôn giả Xá-lợi-phất về việc thực hành của các hàng Bồ-tát về Tứ nhiếp pháp theo thể cách của Ba-la-mật Đại thừa không cần biết đến kết quả hồi báo của hành động người thực hành Tứ nhiếp, miễn sao việc làm của họ mang lại lợi lạc cho chúng sanh và đưa họ về đường chánh thì làm, còn việc mang lại lợi lạc cho chính bản thân của người thực hành là như thế nào không để ý đến!

“… Đối với Bồ-tát Tứ nhiếp cũng không thể tận. Sao gọi là Bốn? Một là Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi hành, bốn là Đồng sự.

Sao gọi là Bố thí? Thí có hai loại: Tài thí và Pháp thí. Sao gọi là Ái ngữ? đối với người cầu tài và người nghe pháp phải dùng lời nói như hòa. Sao gọi là Lợi hành? là đối với người cầu tài và nghe pháp phải tùy theo những gì họ cầu mà đáp ứng đầy đủ. Sao gọi là Đồng lợi? là đối với người cầu tài và pháp phải dùng pháp Đại thừa tự lợi khiến an chỉ họ.

Hơn nữa, Bố thí có nơi gọi là xả tâm. Ái ngữ, là thực hành không giới hạn. Lợi hành, cuối cùng không hối hận. Đồng lợi, hồi hướng về Đại thừa. Hơn nữa, Bố thí là khởi lòng từ bi, thực hành xả bỏ tư hữu. Ái ngữ, không bỏ tâm hỷ. Lợi hành, trang nghiêm đại bi làm lợi chúng sanh. Đồng lợi, đối với trên dưới xả bỏ, phát tâm hồi hướng Nhất thiết chủng trí.

Hơn nữa, Bố thí, cầu tài như pháp, hành thí thanh tịnh. Ái ngữ, dùng từ hòa hướng dẫn, an chỉ vào pháp thiện. Lợi hành, nói về tự lợi, là để lợi ích mọi người. Đồng lợi, khiến mọi người phát tâm Nhất thiết trí. Hơn nữa Bố thí, phải xả cả trong lẫn ngoài. Ái ngữ, công đức trí tuệ, tâm không tham luyến. Lợi hành, bỏ tự lợi hành lợi tha. Đồng lợi, xả bỏ địa vị quan trọng, tâm không hối tiếc.

Pháp thí, như những pháp đã được nghe tất phải diễn nói lại. Ái ngữ, không vì lợi dưỡng mà nói pháp. Lợi hành, khuyên bảo người đọc tụng, tâm không biết mêt mỏi. Đồng lợi, nhất thiết trí là tâm được pháp vi diệu, tức là dùng pháp vi diệu này khích lệ chúng sanh.

Hơn nữa, pháp thí là nếu có chúng sanh nào mỗi lần nghe pháp, theo thứ tự vì họ mà nói không sai lầm. Ái ngữ, vì người nói pháp không từ xa gần. Lợi hành, có người cầu pháp, nên cung ấp, y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh khiến cho họ không thiếu, trước làm cho họ yên sau đó tùy theo sở cầu của họ mà diễn nói. Đồng lợi, Khi nào giảng thuyết cho mọi người thì thường phải khuyên chúng sanh hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: anuttara-samyak-sambodhi).

Hơn nữa, Pháp thí, đối với trong những pháp Bố thí thì Pháp thí là tối thắng, nên dùng pháp thắng này mà vì mọi người diễn nói. Ái ngữ, thường vì lợi ích chúng sanh mà nói. Lợi hành, tùy thuộc vào nghĩa của thuộc tính mà nói chứ không tùy theo văn tự. Đồng lợi, thường vì để hoàn bị Phật pháp đầy đủ nên nói.

Hơn nữa, Bố thí phải đầy đủ Đàn-na Ba-la-mật (dāna-pāramitā). Ái ngữ, phải đầy đủ Thi-la Ba-la-mật (śīla-pāramitā). Lợi hành, phải đầy đủ Tỳ-lị-da Ba-la-mật (vīrya-pāramitā). Đồng lợi, phải đầy đủ Thiền-na Ba-la-mật (dhyāna-pāramitā). Hơn nữa, Bố thí là mới phát khởi Bồ-đề. Ái ngữ, là tu tập thực hành Bồ-đề. Lợi hành là không thối thất Bồ-đề. Đồng lợi là Nhất sinh bổ xứ.

Hơn nũa, Bố thí là an trụ căn bổn chủng tử Bồ-đề. Ái ngữ, nuôi lớn mầm thân cành lá Bồ-đề. Lợi hành là từ từ triển khai ra hoa Bồ-đề. Đồng lợi, tự có khả năng thành tựu thật quả Bồ-đề. Đó gọi là Bồ-tát nhiếp hóa chúng sanh không thể tận.”

Qua kinh Đại Tập cho chúng ta thấy con đường thực hành Bồ-tát đạo của Bồ-tát phải lần lượt kinh qua Tứ nhiếp pháp, tùy theo nhu cầu thuộc tính của đối tượng chúng sanh mà Bồ-tát thực hiện Tứ nhiếp pháp để hoàn thành Giác hạnh viên mãn của mình khi còn là một Bồ-tát. Giai đoạn Bồ-tát hành Bồ-tát đạo là thời gian lòng từ phát triển đến cực độ, tất cả mọi hành vi mọi tạo tác của các Ngài đều phát sinh từ lòng từ vô hạn nhằm vào nỗi khổ triền miên của chúng sanh mà nhiếp phục hướng dẫn chỉ đường trở về chánh đạo giải thoát khổ đau, đó là những gia vụ đặc biệt của các Ngài. Điều này được thể hiện qua Luận Đại Trí Độ, được Bồ-tát Long Thọ triển khai sâu rộng hơn. Theo Luận Đại Trí Độ 65 thì mỗi một Nhiếp pháp được phân ra làm hai chủ loại trừ pháp thứ tư: Như Bố thí thì có tài thí và pháp thí như trong các bản kinh, nhưng riêng về ba nhiếp pháp sau cũng được Ngài phân ra mỗi nhiếp pháp có hai loại như sau: “Dùng hai loại tài thí pháp thí mà nhiếp hộ chúng sanh. Có hai loại Ái ngữ: Một, Ái ngữ tùy ý. Hai, Tùy theo chỗ ái pháp của chúng sanh mà nói. Khi Bồ-tát chưa đạt được đạo, khi gần gũi chúng sanh, Bồ-tát tự phá lòng kiêu mạn của mình, tùy ý mà nói pháp, hay nếu khi Bồ-tát đã đắc đạo rồi thì tùy thuộc vào pháp nên độ mà vì chúng sanh nói. Đối với người giàu có rộng lòng thì nên vì họ khen ngợi bố thí. Người phước đức nổi tiếng thường hay được lợi vật từ người khác, nếu vì họ mà khen ngợi việc trì giới, hủy báng việc phá giới thì tâm họ sẽ không vui thích. Như vậy phải tùy thuộc vào những thuộc tính của họ mà nói pháp. Lợi ích cũng có hai loại: Một, vì cái lợi đời này hay vì cái lợi đời sau mà vì họ nói pháp, vì là pháp đối trị cuộc sống nên siêng tu tập Lợi sự (hành). Hai, người chưa tin dạy khiến họ tin, người phá giới khiến họ giữ giới, người ít hiểu biết khiến họ biết nhiều, người không bố thí khiến họ bố thí, người ngu si dạy họ trí tuệ. Cứ như vậy mà dùng pháp thiện lợi lạc chúng sanh. Đồng sự, Bồ-tát giáo hóa chúng sanh khiến họ cũng hành pháp thiện như mình; Bồ-tát tâm thiện, chúng sanh tâm ác thường xuyên giáo hóa họ khiến họ cũng giống như pháp thiện của mình. Đó là Bồ-tát dùng bốn loại nhiếp hóa chúng sanh khiến cho họ trụ vào mười thiện đạo.” Qua những kinh luận mà chúng tôi trích dẫn ở trên, đó chỉ là một ít bản kinh luận tiêu biểu cho Tứ nhiếp pháp trong nhiều bản khác nữa, chúng cũng đủ nói lên tinh thần từ bi vị tha vong thân của các hàng Bồ-tát trong lúc thực hành Bồ-tát đạo của mình trong đó có cả thời quá khứ của đức Đạo sư nữa, đã nói lên được tính đặc trưng của pháp môn tu Tứ nhiếp pháp này dành cho các hàng Bồ-tát dù là ở vào thời nào trong quá khứ, tương lai hay hiện tại, pháp Tứ nhiếp được coi như là pháp tu lưỡng lợi cho cả tự và tha trong việc hoàn thành sứ mệnh giải thoát cao cả của mỗi chúng ta trong chức năng tự lợi lợi tha thể hiện giáo pháp đặc trưng của đức Đạo sư qua Từ bi, Trí tuệ và giải thoát.

Tóm lại, Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp mà đức Đạo sư đã dạy cho các hàng đệ tử của mình từ xuất gia cao nhất là các hàng Bồ-tát cho đến các hàng Thinh văn và các hàng đệ tử Bồ-tát tại gia cùng các hàng cư sĩ nam nữ tại gia, trong mỗi chức năng thuộc tính của mình mà theo đó tự lợi và lợi tha trong việc chuyển vận bánh xe chánh pháp đi vào giữa thế gian loài người kéo họ trở về với chánh đạo, đưa chúng sanh hữu tình từ vô minh phiền não trở về giác ngộ giải thoát, từ khổ đau trở về an vui, từ sinh tử trở về Niết-bản, từ tà kiến sai lầm trở về chánh pháp chánh kiến mà đức Đạo sư dành dạy cho các hàng đệ tử của Ngài, nhất là đối với các hàng Bồ-tát. Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn Tiểu thừa và Bồ-tát Đại thừa sinh khởi lòng thân ái, và lòng từ bi để hướng dẫn chúng sanh hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất; chúng đáp ứng và thõa mãn được những nhu cầu tình cảm có được của họ mà dìu dắt. Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hạnh nguyện Bồ-tát của mình, một bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát. Tuy giữa Tiểu thừa và Đại thừa qua Tứ nhiếp pháp có những phương pháp sai khác nhau phát xuất từ từng thuộc tính căn cơ nên việc áp dụng tu tập cũng theo đó mà có được, nhưng trên đại thể vẫn mang dấu ấn tự lợi lợi tha trong chức năng hoàn thành việc tu tập của hành giả theo nhân quả hay duyên khởi mà thôi.

Thích Đức Thắng
[Tập san Pháp Luân - số 43, tr.3, 2007]