Trang 3 / 3
“12 chi nhân duyên” còn được gọi là thập nhị duyên khởi, thập nhị hữu chi, thập nhị chi, v.v... đây là những cụm từ mà Phật giáo quen dùng để nói lên sự quan sát mang tính lý luận và cách hành xử thực tiễn đối với chúng sanh. Phật giáo dùng khái niệm này để giải thích nguồn cội thống khổ của chúng sinh và qua đó trình bày giáo nghĩa của mình về phương thức đoạn trừ khổ đau. Đây là một trong những giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo. Phật giáo cho rằng, mọi hiện tượng tinh thần và vật chất của thế gian đều có mối quan hệ nhân quả. Chúng tồn tại trong các điều kiện nhân quả ấy và luôn chuyển biến trong mối tương hệ lẫn nhau. Dựa vào sự khảo sát như thật về tiến trình quan hệ nhân quả để các pháp tồn tại và chuyển biến này, người ta có thể nhận ra “học thuyết duyên khởi” - theo thuật ngữ đương đại. Khi giải thích về mối quan hệ này, đức Phật đã tóm lược ý nghĩa của nó bằng pháp ngữ sau: “cái này có [trở thành], nên cái kia có; cái này sinh, nên cái kia sinh”. Kinh Duyên khởi dạy: “Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: ‘ta sẽ dạy cho các thầy về ý nghĩa sai biệt ban sơ của duyên khởi, các thầy nên lắng nghe và khéo tư duy. Ta nay sẽ phân tích cho các thầy biết’. Chúng Tỳ-kheo thưa: ‘chúng con muốn nghe Phật dạy, như thế nào là ban sơ của duyên khởi, tức là cái này có, nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh’”.
Theo truyền thuyết, khi đức Phật nhập trong trạng thái tư duy thiền định, Ngài quan sát phân tích nỗi thống khổ của chúng sinh và tự hỏi rằng do đâu mà sinh ra khổ nạn ấy. Sau đó, Ngài chứng nghiệm được nguyên lý 12 chi nhân duyên này. Học thuyết 12 chi duyên khởi nhắm đến việc phân tích hiện tượng biến ảo sinh diệt của các pháp, hay là hiện tượng sinh diệt của nhân loại theo nguyên lý tương duyên. Do vì tính tương duyên này, cuộc đời của con người, từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành, đều chịu sự tác động của các điều kiện tất yếu như thế. Kinh Duyên khởi dạy: “Cái gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, khởi sầu bi thống khổ, đó chính là tập hợp của đại khổ uẩn”. Trên quan điểm đó, đức Phật chỉ ra rằng quá trình sinh khởi và hình thành của một cá thể luôn có sự tác động hỗ tương giữa cái này và cái kia, và chúng giao thoa với nhau thành 12 chi phần liên hoàn. Mười hai chi phần này được thuyết minh như sau:
1/ Vô minh: con người và cuộc sống của họ đều hoàn toàn do ngu si mông muội, mà hiện thành.
2/ Hành: do ngu si mà các loại dục vọng và ý chí sinh khởi.
3/ Thức: do dục vọng và ý chí mà hình thái thống nhất tinh thần của con người sinh khởi.
4/ Danh sắc: do nhận thức mà tinh thần và nhục thể của con người được phát sinh.
5/ Sáu xứ: chỉ cho yếu tố làm phát sinh sáu loại cảm giác khí quan của con người, chẳng hạn: yếu tố thấy qua con mắt, nghe được âm thanh, v.v...
6/ Xúc: do những tương tác của sáu căn và những đối tượng tương ứng, xúc phát sinh.
7/ Thụ: thông qua tiếp xúc mà cảm giác về khổ và vui phát sinh.
8/ Ái: do cảm giác, tâm tham ái đối với lạc thú sinh khởi.
9/ Thủ: do tham ái mà sinh ra ý muốn về sự cố thủ và tìm cầu.
10/ Hữu: do tìm cầu và bám chấp mà môi trường sanh tử được hình thành.
11/ Sinh: khi hoàn cảnh hay điều kiện hội đủ, sinh mệnh phát sinh.
12/ Lão tử: có sinh tức là có suy già và tử diệt.
12 chi nhân duyên này cấu thành chuỗi mắc xích toàn diện liên hoàn nhân quả của một cá thể nhân sinh, trong mỗi một mắc xích ấy đều có mối quan hệ nhân quả trọng yếu với các mắc xích khác. Sự lý giải 12 chi nhân duyên của Phật giáo, đều lập cước trên cả hai phương diện nhân và quả. Một là, bắt đầu khảo sát từ vô minh vô thủy thuận hành đến lão tử, nguyên nhân tối căn bản để phát sinh thống khổ chính là sự ngu si của con người. Do vậy, vì vô minh mà dẫn khởi hành, do hành duyên thức...sự thuận hành như vậy khiến cho người ta lưu chuyển trong sinh tử, nhận lấy bao nhiêu là thống khổ và phiền lụy. Cái gọi là “lưu chuyển môn”. tức là khởi sự từ vô minh đến lão tử được xem như là một chuỗi tuần hoàn, góc độ này là xét theo hệ thống quả. Hai là, xét từ khía cạnh căn bản của lưu chuyển môn, điều cần thiết là trừ khử sự sinh, tức là trừ khử môi trường dẫn đến sự tồn tại của cái sinh, hình thái này được suy luận theo chiều ngược lại, nếu theo chiều ngược này, người ta có thể đoạn trừ được nguồn gốc của khổ đau. Chung quy, chỉ khi nào đoạn trừ được vô minh, tức sự ngu muội vô thủy của mình, thì người ta mới mong đạt đến giải thoát rốt ráo, đi ngược theo cách này là xét về hệ thống nhân. Thuật ngữ gọi là hoàn diệt môn. Tóm lại, cách lập luận về 12 chi duyên khởi là dựa trên “vô minh” của mỗi người để tiến hành khảo sát nguyên nhân của tất cả khổ đau con người, và mục đích tu hành tối hậu trong việc tu tập của Phật giáo là loại trừ “vô minh”, đắc giác ngộ một cách triệt để.
Liên hệ đến 12 chi duyên khởi, Câu xá luận giải thích có bốn loại duyên khởi: 1/ Sát na duyên khởi, tức là một sát na vừa khởi sinh liền diệt trong tâm thức của chúng sinh. 2/ Duyên khởi liên tục, tức là sự tương tục không ngừng nghỉ trước sau của 12 chi nhân duyên, hình thành quan hệ nhân quả trước sau của chúng. 3/ Duyên khởi viễn tục, tức là 12 chi nhân duyên có thể trải qua nhiều đời mà vẫn gắn kết không đứt đoạn, chẳng hạn, học thuyết về hai loại nhân quả ba đời, nghĩa là lấy 12 chi nhân duyên này phân làm hai loại nhân quả trong ba đời liên tục trước sau. 4/ Duyên khởi phần vị, tức là biểu thị hữu tình chúng sinh ở nơi các loại trạng thái trong quá trình chuyển lưu của hai loại nhân quả trong ba đời. Học thuyết này được các nhà Nhất thiết hữu bộ ứng dụng, có những ảnh hưởng rất lớn.
Vô minh
Dựa trên tự nghĩa để giải thích, cái gọi là vô minh, tức là cái che đậy bản tính, khiến cho người ta mất sáng suốt, thế nên mới gọi là vô minh. Trong Phật giáo, trạng thái này, có khi gọi là si, hoặc là ngu si. Bản kinh Duyên khởi nói “Vô minh là gì? Đó là sự vô tri trong tiền tế, vô tri trong hậu tế, vô tri trong tiền và hậu tế; vô tri ở bên trong, vô tri ở bên ngoài, vô tri cả trong lẫn ngoài; vô tri nơi nghiệp, vô tri nơi dị thục, vô tri nghiệp lẫn dị thục; vô tri với Phật, vô tri với Pháp, vô tri với Tăng. Vô tri nơi khổ, vô tri nơi tập, vô tri nơi diệt và vô tri nơi đạo; vô tri với nhân, với quả, vô tri nơi pháp đã sinh; vô tri nơi thiện, nơi bất thiện; vô tri ở tội, vô tri ở phi tội; vô tri với cái cần tu tập, vô tri với cái không cần tu tập; vô tri nơi cái hèn kém, với cái thượng diệu; vô tri nơi đen tối, vô tri nơi minh bạch; vô tri với hữu dị phần, vô tri với duyên đã sinh hoặc sáu xứ thông đạt như thật. Như thế là sự ngu si trong chủng chủng xứ như thật, không có tri kiến, không có hiện quán; ngu si vô minh si ám, tức là vô minh vậy.” Vô minh đã thành là một khối cấu trúc [của chúng sinh] như những gì mà kinh Duyên khởi đã dạy. Có thể thấy, cái gọi là vô minh, chẳng những chỉ cho sự ngu si nói chung, mà còn chỉ cho sự ngu si, không nắm bắt triệt để ý nghĩa giáo pháp của đức Phật nữa.
Câu xá luận nói: “Si là vô minh”. Căn cứ vào sự giải thích của Nhất thiết hữu bộ, trong 12 chi nhân duyên, các loại phiền não của đời quá khứ bị dẫn sinh, gọi một cách bao quát là vô minh. Tuy những phiền não của đời quá khứ có vô số loại, thế nhưng, mọi phiền não đều có mối quan hệ với vô minh, đều lấy tác dụng của vô minh làm tính chất ưu thắng, dũng mãnh, do vậy gọi một cách bao quát là vô minh. Vô minh lấy sự mê mờ làm bản chất, nghĩa là đối với pháp Tứ đế, đối với nghĩa lý của Tam bảo, thiện ác nghiệp quả, các nguyên lý của luân hồi báo ứng, v.v... không thể thấu triệt, không hiểu biết như thật các pháp đã được đức Phật tuyên thuyết, đó là vô minh. Vô minh là căn bản của các phiền lụy, xuyên suốt từ đầu đến cuối của ba đời chìm nổi; theo đó, trên mặt thực tế, cái vô minh này đã thành là nguyên nhân tối cơ bản của tất cả mê cảm nơi thế giới thế tục. Trong 12 chi nhân duyên, vô minh là cơ sở nhân duyên của nhất thiết chúng sinh, nếu như cái cần thiết là tiêu diệt mọi thống khổ lụy phiền, thì cái phải diệt, chính là vô minh vậy.
Khi bàn đến vô minh, các tông phái Phật giáo có nhiều cách lý giải khác nhau. Như đã nêu, chẳng hạn Nhất thiết Hữu bộ lấy hai loại nhân quả ba đời để giải thích 12 chi nhân duyên, bởi vì vô minh được cho là nhân của đời quá khứ. Tông này chia vô minh làm hai loại. Vô minh tương ưng và Vô minh bất cộng. Vô minh tương ưng là chỉ cho loại mê muội tương ưng cộng khởi với các căn bản phiền não như tham, sân, si; vô minh bất cộng là chỉ cho sự mê muội tự sinh khởi độc lập, cộng khởi hay bất cộng khởi với các loại phiền não. Tông Duy thức cũng chủ trương giống như học thuyết này, họ đem bất cộng vô minh tương phối với thức thứ 7 là Mạt-na và thức thứ 6 là ý thức trong 8 thức, tiến thêm một bước phân ra bất cộng vô minh thành độc hành bất cộng và hằng hành bất cộng vô minh.
Xuất phát từ quan điểm ở phương pháp luận của Duy Thức, Đại thừa khởi tín luận quy tập mọi hoạt động của nhận thức và gọi đó là vọng tâm hoặc gọi chung là vô minh. Học thuyết này cho rằng, mọi hiện tượng của thế giới là duy tâm, còn tâm chân như vốn xưa nay thanh tịnh và không tạp nhiễm. Thảng hoặc, nếu đã là vọng tâm, tức là do niệm bất giác khởi, cho dầu có thấy chủng chủng sự vật thế gian sai biệt, chủng chủng cảnh giới đi nữa, cũng là do “tâm sinh thì chủng chủng hiện tượng sinh, tâm diệt thời chủng chủng diệt” vậy thôi. Cái vọng tâm ấy tức là vô minh vậy. Học thuyết này lại tiến hành phân vô minh ra thành: vô minh căn bản và vô minh chi mạt. Vô minh căn bản còn gọi là căn bản bất giác, vô thủy vô minh, v.v... nội hàm của danh xưng như vậy nhằm chỉ cho trạng thái không thấu triệt được thật tánh của các pháp, cái lý duy tâm của phương pháp luận này nhắm vào quan điểm “đối cảnh sinh tình” của tâm thức. Học thuyết này cho rằng cái tâm sinh phân biệt hư vọng ấy chính là khởi thủy và nguồn gốc của mọi lụy phiền, là tính chất tối sơ của mọi mê vọng. Cái gọi là căn bản vô minh, chính là do tâm khởi động nhất niệm. Chi mạt vô minh, hoặc chi mạt bất giác là do căn bản vô minh mà từ đó các loại phiền não vọng tâm và tâm tạp nhiễm sinh khởi. Theo đó, loại vô minh ấy khởi sinh là do căn bản vô minh, vì sánh với căn bản vô minh này mà xưng là “chi mạt” vậy.
Hành
Hành có hai tầng ý nghĩa, một là “tạo tác”, hai là “lưu chuyển”. Quyển thứ nhất trong Câu xá luận sớ giải thích như sau: “Do hai nghĩa [tạo tác và chuyển lưu], nên được gọi là hành.” Trên mặt thực tế, trong giáo nghĩa Phật giáo, khái niệm về hành này, đã bao hàm tất cả sự tạo tác cộng hưởng toàn diện, bao hàm tất cả các pháp có tính chất chuyển lưu, biến hóa. Chi hành sở dĩ hiện hữu trong 12 chi duyên khởi là do tác dụng sinh khởi của vô minh mà cảm triệu nên, nó có hiệu năng dẫn thành các “nghiệp” thân, khẩu, ý thuộc về quả báo tội phước của thiện và ác, được sánh đồng với mọi hoạt động thân và tâm của nhân loại. Kinh Duyên khởi dạy rằng, “thế nào gọi là hành, hành có ba tính chất; đó là sự hoạt động của thân, của khẩu và của ý.” Quyển số 9 trong Câu xá luận giải thích: “Do các nghiệp phước chứa nhóm v.v... trong đời trước mà thành quả dị thục ở đời nay, nên gọi là hành”. Điều này có nghĩa là do các nghiệp thiện và ác ở đời quá khứ mà cảm triệu nên quả báo thiện ác của hiện thế, gọi một cách tổng quát là hành.
Xét từ góc độ lý luận như thế, nghiệp có ba tính chất sai biệt, đó là thiện, ác và vô ký. Cái gọi là vô ký, chính là trạng huống không phân biệt thiện, ác, được quy vào trong các nghiệp thuộc về trung tính. Tuy nhiên, Hành trong 12 chi duyên khởi, chuyên chỉ cho nghiệp thiện và ác có tiềm năng chiêu cảm quả báo tội phước, Do vậy, trong kinh Thập địa cho biết là, hành có 2 loại, thuần túy chỉ có bản chất thiện và bất thiện mà thôi.
Dựa vào học thuyết hai loại nhân quả của ba đời, ta có thể biết, hành cũng là nhân của đời quá khứ. Vô minh và hành là hai nguyên nhân của đời quá khứ. Trong Hữu bộ, có nói đến 12 phần vị là chỉ cho thân tâm chúng sinh của đời quá khứ tác tạo. Hễ đã có hai loại nguyên nhân này, thì mới có thể tạo thành cái quả hiện tại của toàn nhân loại ở thế gian này vậy.
Pháp Hiền cư sĩ (còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân số - 41, tr.46, 2007]
12 Chi Nhân Duyên - Phần 1
Typography
- Smaller Small Medium Big Bigger
- Default Helvetica Segoe Georgia Times
- Reading Mode