Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
Tây Tạng đã đánh bại được lính Trung Quốc nên đức Đạt-lai Lạt-ma đã trở về Lhasa vào đầu năm 1913. Ngài ra lệnh tất cả binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng. Các tù binh Trung Quốc được khoan hồng và trở về Trung Quốc qua đường Ấn Độ theo sự yêu cầu của Anh. Đức Đạt-lai Lạt-ma tuyên bố Tây Tạng độc lập; soạn thảo và bổ sung năm chính sách quan trọng. Đầu tiên là bảo tồn truyền thống văn hóa Tây Tạng. Kế đến là tôn trọng lẫn nhau thông qua sự nhận xét về các truyền thống tôn giáo, với việc hạn chế sự dính líu của các tổ chức tôn giáo trong lĩnh vực chính trị và thương mại. Những chính sách khác bao gồm các đạo luật công bằng; cách quản lý công minh; huỷ bỏ hình phạt tử hình; chính sách phòng thủ quốc gia; cải cách và hiện đại hóa sự phân phối đất đai và thuế vụ. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã áp dụng biện pháp bảo vệ đất nước bằng cách tăng cường trang bị và hiện đại hóa cho quân đội. Ngài đã bổ nhiệm một hệ thống chính quyền ở vùng Kham, điều quân đến kiểm soát khu vực vẫn còn sự hiện diện của binh lính Trung Quốc ở gần vùng biên giới phía đông.
Với hy vọng rằng nền độc lập của Tây Tạng sẽ được thừa nhận thông qua hiệp ước, đức Đạt-lai Lạt-ma đã hối thúc các cuộc đàm phán giữa Tây Tạng, Trung Quốc và Anh. Tuy nhiên, Anh không muốn gây thù địch với chế độ mới của Trung Quốc do Sun Yat Sen cầm đầu. Tây Tạng phải đồng ý để cho Trung Quốc trên danh nghĩa làm bá chủ của các tỉnh Kham và Amdo, những vùng mà hiện nay được xem như ngoài lãnh địa của Tây Tạng. Trung Quốc đã không ký kết Hiệp định Simla vào năm 1914. Sau đó quyết định tiến vào Simla; đặt tên cho Tây Tạng là một khu vực tự trị, đó là một trở ngại cho việc Tây Tạng được công nhận là thành viên của Liên Hiệp Quốc.
Sau khi đảm bảo được quyền tự trị của Tây Tạng, đức Đạt-lai Lạt-ma đã bắt tay vào việc thực hiện những sự thay đổi mà ngài đã đề xuất trong lời tuyên ngôn độc lập của mình. Như đã đề cập, ngài nỗ lực xây dựng quân đội và đã nhận ra rằng không thể dựa vào sức mạnh của ngoại bang để bảo vệ Tây Tạng được. Quân đội Tây Tạng được vận hành theo phương thức của Nhật vì phương pháp huấn luyện của Nhật được xem là có ưu thế hơn. Sau năm 1920, Tây Tạng chấp nhận định hướng của Anh trong những vấn đề quân sự. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII cũng ra lệnh đại tu lại các cộng đồng Tự viện và các tiện nghi giáo dục cũng như các bệnh viện và các trường chuyên Y dược. Ngài còn khuyến khích việc trình diễn nghệ thuật. Ngài ra lệnh cho các thể chế chính trị bắt đầu cải tổ lại chính mình. Năm 1916, cảm thấy các sự cải cách của mình đã đi vào hoạt động; ngài đã quyết định thực hiện kỳ nhập thất dài hạn ba năm.
Để trang trải các khoảng chi phí nhằm duy trì quân đội thường trực, buộc phải xét duyệt lại hệ thống thuế vụ, các tự viện và gia đình có sở hữu những trang điền lớn - trước kia chỉ đóng thuế rất ít - giờ phải đóng đúng theo diện tích mà họ đã sở hữu. Các khu tự trị Tashi Lhunpo, khi mức thuế của họ tăng lên một cách đáng kể, đã có cảm giác rằng họ đang bị trừng phạt về vai trò của mình trong cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1910. Lúc ấy, ngài Panchen Lama, dưới sự thúc giục của các đệ tử, dường như đã cầu cạnh ân huệ từ phía Trung Quốc. Đương nhiên Trung Quốc đã nỗ lực rất nhiều để lợi dụng vị trí và chức vụ của Panchen Lama để chống lại Đức Đạt-lai Lạt-ma. Trung Quốc đã dành chỗ cho Panchen Lama ở vị trí đứng đầu của chính quyền Tây Tạng cũng như Anh đã từng làm trong thời gian đức Đạt-lai Lạt-ma lánh nạn vào năm 1904. Và một lần nữa, Panchen Lama đã khước từ, mặc dù bên ngoài dường như ngài đã bị cám dỗ. Sự tập trung các chính sách của đức Đạt-lai Lạt-ma đã đe dọa quyền tự trị của Tashi Lhunpo. Điều này phối hợp với tham vọng bề ngoài của Panchen Lama để phát triển vai trò của mình khiến cho ông và các thuộc hạ phải lập tức rời khỏi Tây Tạng. Vào năm 1923, với ngụ ý đi du thuyết ở Trung Quốc, Panchen Lama đã không bao giờ trở về Tây Tạng nữa mặc dù các viên chức của ngài đã nỗ lực nhiều lần để thương lượng cho sự trở về của ngài. Đó là một điều thật đáng buồn vì cá nhân đức Đạt-lai Lạt-ma và Panchen Lama rất cảm kích lẫn nhau, bất cứ khi nào họ ở cùng nhau đều luôn thể hiện sự mến mộ ấy. Thậm chí đức Đạt-lai Lạt-ma còn ngăn cản các viên chức của ngài trong việc trả đũa lại Tashi Lhunpo. Sự ra đi của Panchen Lama đã chứng tỏ rằng nó thực sự gây tổn thương cho Tây Tạng.
Ngoại trừ ba năm trong giai đoạn nhập thất, đức Đạt-lai Lạt-ma đã làm việc cật lực để cải cách xã hội Tây Tạng. Bên cạnh những việc cải cách đã đề cập như trước, ngài còn triệt bỏ những tệ nạn của hành vi quản lý hối lộ trong Lễ hội Đại cầu nguyện, điều mà đã khiến cho mọi người phải tránh xa lễ hội này. Ngài đã đích thân giám sát các kỳ thi tốt nghiệp cấp Geshe (Tiến sĩ); điều này cũng đã từng là chủ đề của sự hối lộ và mua chuộc. Ngài đã khôi phục lại những ngôi chùa cổ kính nhất của Tây Tạng cũng như trùng tu các hệ thống chùa chiền khác kể cả các công trình nghệ thuật của các tự viện. Ngài đã có những bản xuất bản mới của bộ sưu tập kinh điển Tây Tạng và cho in ấn Đại tạng Kinh. Trong quá trình đó, ngài đã cách chức vị Tổng biên tập khi phát hiện ra rằng có một số sự phiên dịch và giải thích đã xuyên tạc biên tập viên của chùa Drepung. Ngài đã đích thân hoàn thành tất cả các công việc. Ngài đã xử phạt các viên chức Tăng sĩ khi phát hiện ra rằng họ đã áp chế những người làm thuê trong các trang điền của chùa. Ngài đã siết chặt các kỷ luật thiền môn và hạn chế sự lan tỏa những ảnh hưởng của thiền môn trong bộ máy chính quyền. Trong lúc những việc làm này đã được hầu hết các Tự viện nhận thức và hưởng ứng (vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho họ tập trung vào những vấn đề tâm linh) - thì lại có rất nhiều sự phản đối về việc cải cách của đức Đạt-lai Lạt-ma đến nỗi ngài buộc phải giảm tốc độ của tiến trình cải cách. Theo Richardson thì chỉ đơn giản là ngài đã tiến chuyển quá nhanh so với quan điểm của nhân dân Tây Tạng.
Đức Đạt-lai Lạt-ma đã nỗ lực tận dụng những cơ hội sẵn có bằng cách tiếp xúc với thế giới hiện đại để hiện đại hóa Tây Tạng. Dưới sức ép liên tục từ các cơ sở tự viện cho thấy có một chút ích lợi từ sự tác động của Anh kể cả sự thất bại của Anh trong việc kìm chân Trung Quốc. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã chấp nhận những sự cách tân này - một việc làm mà hầu như trái với những kỷ luật của thiền môn. Thật ra, những nỗ lực của đức Đạt-lai Lạt-ma trong việc hiện đại hóa đã có sự sắp đặt trước với ý định đưa Tây Tạng đến một vị trí mà nó có thể giữ vững được lập trường của mình đồng thời cũng duy trì được trạng thái cân bằng giữa những thế lực cường bạo của các nước láng giềng.
Malik cho rằng Đạt-lai Lạt-ma đã đưa phương pháp tiếp cận thực tế vào trong những hoàn cảnh chính trị mà Tây Tạng đã phải đương đầu. Ngài là một con người hành động. Người ta cho rằng ngài có những sức mạnh thần kỳ và những năng lực huyền bí, điều mà ngài đã biểu lộ ra bên ngoài vào một dịp khi ngài đang quan sát một số Tăng sĩ đã cử hành nghi lễ không đúng cách trong Lễ hội Đại cầu nguyện, ngài đã giậm lên chân của vị ấy để cho họ phải chú tâm vào những nghi thức của mình. Một dấu chân của đức Đạt-lai Lạt-ma hiện vẫn còn lưu lại trên hành lang bằng đá của chùa Jokang. (Malik, Dalai Lamas of Tibet, p.48, Bell, Portrait of the Dalai Lama, p.169, 296-297)
Đức Đạt-lai Lạt-ma đã cống hiến suốt thập niên cuối cùng của cuộc đời mình cho những nhiệm vụ trọng yếu của một bậc Đạo sư: thuyết pháp, giảng dạy, thảo luận về triết lý, sáng tác, soạn thảo những chuyên đề tâm linh. Ngài đã duy trì không mệt mỏi cho sự phục hồi, thăng hoa và phát triển của nền văn hóa Tây Tạng. Ngài có thể giữ không cho Trung Quốc tiếp cận khi ngài hy vọng thay đổi những quan điểm của Anh. Quần chúng đã vô cùng ngưỡng mộ ngài về lập trường không nhượng bộ đối với những hành vi hối lộ được minh họa bằng những thái độ hết sức khắt khe đối với các viên chức của ngài. Do vậy, ngài được gọi là “Vị thứ XIII Vĩ Đại”. Ngài đã cải hóa được rất nhiều người có liên quan đến các lĩnh vực như giáo dục, y học, luật pháp và điều hành chính sự; đóng một vai trò hết sức năng động trong công cuộc cải cách về những lĩnh vực này. Vì vậy ngài luôn được thỉnh ý về những vấn đề gì cần nên xúc tiến thêm… Vào năm 1932, vị thần tiên tri Nechung đã cảnh báo là sẽ có những điều nguy hiểm đối với sự sống của ngài.
Trong chúc thư cuối cùng của mình, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII đã xem xét lại cuộc đời và những việc làm của ngài. Ngài đã cảnh báo cho dân Tây Tạng rằng chính quyền Trung Quốc đã đưa ra những yêu sách rất bất lợi đối với Tây Tạng và họ có ác cảm đối với tôn giáo. Ngài tiên đoán rằng Tây Tạng và nền văn hóa Tây Tạng sẽ bị hủy diệt nếu không lập tức tiến hành các biện pháp hiện đại hóa và tăng cường vũ trang quân đội. Sau đó, ngài nói rằng không còn bao lâu nữa ngài sẽ viên tịch. Những lời của ngài đã trở thành lời tiên tri vì hầu hết những gì ngài tiên đoán trong chúc thư này đều xảy ra đúng như dự đoán, kể cả về cái chết của ngài do bệnh tật vào một năm sau đó - 1933.
Bell phỏng đoán rằng đức Đạt-lai Lạt-ma qua đời là do làm việc quá sức. Một giả thuyết của Tây Tạng thì cho rằng ngài đã chọn cái chết để cho tái sinh của ngài có đủ sức mạnh cường tráng của tuổi trẻ khi Trung Quốc gieo rắc sự chết chóc và hiểm họa lan tràn trên đất nước Tây Tạng. Dù với bất cứ trường hợp nào đi chăng nữa thì ngài vẫn luôn luôn được tưởng niệm như một nhà hoạt động không mỏi mệt vì hạnh phúc và lợi lạc của nhân dân Tây Tạng và của Phật giáo. Đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại (thứ XIV), khi nhớ lại những thành tựu của ngài Thứ XIII Vĩ Đại, đã đề cập rằng tiền thân của ngài đã cải thiện mức sống của dân tộc, tổ chức lại đội ngũ quân đội, gởi học sinh đi du học nước ngoài, thiết lập các ngành điện lực và công nghiệp, đưa vào hoạt động các ngành bưu điện và bưu chính viễn thông, thay đổi chương trình giảng dạy của truyền thống Gelugpa và ký kết hàng loạt các hiệp định quốc tế. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV cũng nói về thời gian khi ngài thứ XIII Vĩ Đại trên đường từ Trung Quốc trở về đã dừng lại ở làng Taktser và có để ý đến vẻ đẹp của ngôi nhà - nơi mà đức Đạt-lai Lạt-ma hiện tại (thứ XIV) chào đời. Sau một thời thiền định, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII nói rằng ngài sẽ trở lại vùng này. Để lại phía sau đôi giày ủng bên cạnh ngôi chùa, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII Vĩ Đại đã cưỡi ngựa đi về hướng Lhasa… dụi bao lần vẫn mất bóng quê hương...
Chú thích:
1. Richardson, Tibet and It’s History, p.131.
2 Malik, Dalai Lama of Tibet, p.55.
3. Bell, Portrait of the Dalai Lama, p.388.
4. The Fourteen Dalai Lama, My land and My People, 1962, p.73.
Biển Xanh
[Tập san Pháp Luân - số 48, tr.48, 2007]
Họ vốn là người từ vùng Kham và đã tìm về tổ tiên ở Dhrala Tsegyal, một trong những nơi sản sinh ra các anh hùng huyền thoại của thiên anh hùng ca Gesar. Ngay sau khi mẹ của ngài mang thai, vùng Lhari Gang đã được ban phúc với những vụ mùa bội thu, những điều kỳ diệu đã xảy ra trong lúc ngài đản sinh, những cầu vồng rực rỡ đã bao quanh căn nhà khi ngài cất tiếng khóc chào đời. Các đại diện từ Lhasa được gởi đến kiểm chứng ngài như thường lệ và khẳng định ngài chính là tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII. Vào năm 1761, ngài được đức Panchen Lama chính thức tuyên bố ngài chính là hiện thân của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII – Kelang Gyaso. Qua năm sau, ngài được viên quan nhiếp chính đưa đến Lhasa và làm lễ đăng quang ở cung điện Potala. Ngài Panchen Lama đã truyền Ngũ giới, đặt Pháp danh là Jampal Gyatso, sau đó chính thức truyền lễ xuất gia cho ngài năm 1765 và truyền giới Cụ túc năm 1777. Panchen Lama cũng đã dạy dỗ, hướng dẫn và trao truyền giáo pháp Kinh tạng và Mật tông cho Jampal Gyatso trong suốt nhiều năm. Ngài được đào tạo theo truyền thống Gelugpa cũng giống như đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII. Tuy nhiên, sau này, ngài đã theo truyền thống của các Đạt-lai Lạt-ma trước, là kết hợp giáo lý của phái Gelugpa và Nyingmapa trong quá trình hành pháp của mình.
Sau cái chết của viên quan nhiếp chính Jampal Delek, đức Đạt-lai Lạt-ma được yêu cầu lên nắm chính quyền nhưng ngài đã từ chối và tuyên bố rằng ngài chưa hoàn tất việc học hành của mình. Do vậy, ngài Ngawang Tsultrim ở chùa Tsernonling, một người rất nổi tiếng, một học giả lỗi lạc, là thầy giáo của hoàng đế trong suốt 14 năm - đã được đề cử lên làm quan Nhiếp chính để phụ giúp ngài về vấn đề chính trị. Một năm sau, ông được chọn làm Tri Rinpoche - người đứng đầu Tăng đoàn của phái Gelugpa và đứng vị trí thứ III trong giới Tăng sĩ Tây Tạng. Ông đã hoàn tất nhiệm kỳ của mình trong vòng 7 năm. Suốt thời kỳ vị thành niên của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII, thanh thế của ông càng trở nên nổi tiếng. Richardson suy luận về điều này rằng do đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII trưởng thành quá chậm và không có nét gì nổi bật. Ông cũng ghi về Panchen Lama: “Một người có tính cách đặc biệt, thông thái và đầy tài năng” , khác với một viên quan nhiếp chính dưới sự giám sát của chính quyền Trung Quốc, ngài được tự do hành động mà không có bất cứ sự can thiệp nào. Ngài được hoàng đế kính trọng, thường hay đến tham khảo ý kiến về các vấn đề tâm linh và chính trị. Nhà đại diện của Anh - George Bogle - người đến Tashi Lhunpo để thảo luận về vấn đề thương mại và các mối quan hệ về tiềm năng ngoại giao đã xem đức Panchen Lama như “là một chiến sĩ thật sự bảo vệ cho quyền lợi của Đạt-lai Lạt-ma và nhân dân Tây Tạng”.
Theo lời mời của hoàng đế Ch’ien Lung, sau khi đã cùng với Hội đồng chính phủ Tây Tạng và viên quan nhiếp chính cân nhắc thận trọng, Panchen Lama thực hiện chuyến viếng thăm Trung Quốc. Ngài ở trong Cung điện Màu Vàng mà trước kia đã xây cất cho đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. Ngài rất được kính trọng, có uy thế lớn và được chọn làm thầy giáo của hoàng đế. Ngài có thể ngăn chặn được sự can thiệp của Mãn Châu với những vấn đề quốc sự của Tây Tạng và tăng thêm uy lực của đức Đạt-lai Lạt-ma sau khi đức Panchen Lama, thầy dạy của Ngài viên tịch vào năm 1780.
Sự ra đi của đức Panchen Lama đã thúc giục Trung Quốc phải trao toàn bộ quyền lực cho đức Đạt-lai Lạt-ma. Ngài đã đồng ý nhận lãnh những trách nhiệm này thể theo sự hối thúc của hoàng đế và lời thỉnh cầu của hội đồng chính phủ và quan nhiếp chính. Ngài lên nắm quyền vào tháng 07-1781. Tuy nhiên, đức Đạt-lai Lạt-ma đã yêu cầu quan nhiếp chính trợ giúp cho ngài về mặt này cho đến năm 1786 khi Ngawang Tsultrim trở lại Trung Quốc theo yêu cầu của hoàng đế. Trong thời kỳ này, đức Đạt-lai Lạt-ma đã ra lệnh xây dựng cung điện Nabulingka, nơi trú ngự vào mùa hè cho các đức Đạt-lai Lạt-ma. Cũng trong năm ấy ngài đã nhận ra hiện thân của đức Panchen Lama, truyền giới Ưu-bà-tắc cho ngài và đặt tên là Tenpe Nyingma. Năm 1789, đức Đạt-lai Lạt-ma đã truyền lễ Xuất gia cho đức Panchen Lama thứ IV và truyền giới Cụ túc vào năm 1801, ngài cũng đảm trách việc giảng dạy kinh điển và Mật tông cho vị Panchen Lama trẻ này.
Lúc đức Panchen Lama thứ III viên tịch, người em trai và cũng là thủ quỹ của ngài đã lấy toàn bộ của cải được xem là di sản của ngài để lại. Ông ta không chia nó cho ai cả, vì vậy đã khiến cho dân chúng và các chùa chiền bất mãn, đặc biệt là đã làm cho người em trai út của ngài - vị Sharmapa Tulku thứ IX - rất bực bội. Ông ta đã về hưu một thời gian trước khi đến Nepal sống với dân tộc Gurkhas - những người mà hiện thời đang cùng ông bày mưu kế đòi quyền chia gia tài với anh trai của mình. Dân tộc Gurkhas là những người Hindu chính thống và là sự khinh bỉ của đa số nhân dân Tây Tạng, trước kia họ đã lật đổ triều đình Newari và củng cố quyền lực của mình ở Nepal. Họ đã tức giận vì những cuộc tranh cãi về vùng biên giới Tây Tạng và sự phàn nàn của Tây Tạng liên quan đến những chính sách về tiền tệ. Sự than phiền của vị Sharmapa Tulku thứ IX đã trở thành cái cớ để cho họ xâm chiếm Tây Tạng.
Người Gurkhas xâm lấn Tây Tạng chiếm giữ 3 quận vùng biên giới. Binh lính Trung Quốc được điều động sang để giải quyết tình hình này. Tuy nhiên, người Trung Quốc đã phản lại những ước vọng của nhân dân Tây Tạng, bao gồm cả hiệp ước mà Tây Tạng đã đồng ý cống nạp hàng năm cho Nepal. Các tài liệu của Tây Tạng đã mô tả về Trung Quốc như một sự chướng ngại, trong khi đó sử liệu Trung Quốc ghi chép lại những điều hoàn toàn trái ngược.
Theo Petech, viên phó quan nhiếp chính mới Tenpai Gonpo sớm được triệu đến Bắc Kinh, do em trai của đức Đạt-lai Lạt-ma vi phạm nên ông đã lợi dụng chức quyền trong một số việc hành chính. Shakabpa có đề cập rằng hai người em trai của Đạt-lai Lạt-ma, một là thư ký tài chính, một là thủ quỹ và những người khác (nhưng không có viên quan phó nhiếp chính) đã bị quan nhiếp chính Ngawang Tsultrim - người được điều về từ Bắc kinh - đưa đi lưu đày. Tuy nhiên, sự qua đời của ông vào năm 1791 đã buộc phải triệu phó quan nhiếp chính - người đang trên đường đến Bắc Kinh - phải quay trở về.
Những người Gurkhas trở lại lấn chiếm Tây Tạng. Lần này họ xâm nhập vùng Shigatse và cướp bóc những kho báu của Tashi Lhunpo. Đức Panchen Lama phải tỵ nạn đến Lhasa. Các đại sứ ở đó đã thúc giục ngài và đức Đạt-lai Lạt-ma nên tránh sang vùng Kham. Dân chúng bắt đầu hoang mang. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã trấn an họ bằng cách từ chối việc rời bỏ Lhasa, thêm vào đó, các vị Viện chủ của ba ngôi chùa chính đã cam kết là sẽ bảo vệ đức Đạt-lai Lạt-ma, cung điện Potala và ngôi chùa Jokang. Nhờ có nạn dịch hoành hành những toán lính của Nepal nên quân đội Tây Tạng đẩy lùi được dân Gurkhas. Một đội quân Trung Quốc được chi viện đến cùng với dân Tây Tạng để đẩy lùi người Nepal, chiếm đóng thủ đô Nepal. Sharmapa Tulku đã tự tử bằng độc dược, sau hậu quả của chiến tranh, của cải và tài sản của ông đã bị chính phủ Tây Tạng tịch thu. Một hiệp ước đã ký kết buộc người Gurkhas phải cống nạp cho triều đình và hoàn trả lại toàn bộ số của cải mà họ đã cướp bóc của Tashi Lhunpo.
Hoàng đế Ch’ien Lung ra lệnh cải cách lại bộ máy chính quyền Tây Tạng cũng như các hoàng đế trước vẫn thường làm. Các đại sứ được ban thêm nhiều thẩm quyền hơn. Đức Đạt-lai Lạt-ma và Panchen Lama phải thông báo với họ nhiều hơn với hoàng đế. Snellgrove, Richardson và Shakabpa vạch trần rằng Trung Quốc chỉ chống đỡ sự kết thúc trong mối quan hệ giữa giáo sĩ - người đỡ đầu của họ bằng cách gởi những toán lính viện trợ đến Tây Tạng mà thôi. Họ cũng nhận thấy rằng cương vị chúa tể của Trung Quốc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và những biến đổi vào tháng 03-1792 đã khiến cho nó chỉ còn “tồn tại chủ yếu trên mặt giấy tờ”.
Sự thay đổi dẫn đến việc đóng cửa các đường biên giới đối với tất cả người ngoại quốc, dường như để đối phó lại, Trung Quốc cũng thực hiện một chính sách tương tự. Shakabpa đưa ra giả thuyết rằng người Tây Tạng đã làm như thế dưới sức ép từ các ngôi chùa lớn ở Lhasa, những người đang lo ngại về mối đe dọa sự ảnh hưởng ngoại bang đối với những vùng Phật giáo. Tây Tạng đã trở thành một vùng đất khép kín trong suốt thế kỷ XIX.
Vào năm 1793, sự thay đổi đã gây sự tranh cãi lớn ở Tây Tạng, đó là việc đưa ra một phương pháp chọn sự tái sinh của các bậc Cao Tăng bằng phương pháp xổ số (điều may rủi). Trung Quốc cảm thấy việc chọn lọc những nhân vật tôn giáo vĩ đại ở Tây Tạng và Mông Cổ đã trở thành chủ đề cho sự lạm dụng, viện dẫn những tính thường xuyên xảy ra mà các Tulkus đã được chọn từ những gia đình quý tộc. Một chiếc bình bằng vàng dùng để đựng tro hỏa táng được gởi đến từ Trung Quốc, trong đó có đựng tên của các ứng cử viên cho các tái sanh của Lama và một cái thăm bốc trúng cho người thắng cuộc. Tuy nhiên, lần đầu tiên sử dụng cách tuyển chọn ấy lại trúng ngay đức Đạt-lai Lạt-ma, do vậy phương pháp này đã bị phớt lờ đi.
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII – Jampal Gyatso – viên tịch vào năm 1804. Theo Mullin thì “ngài đã thể hiện được những phẩm chất tâm linh tuyệt diệu xen lẫn với sự chán ghét đối với mưu đồ chính trị”. Đệ tử của ngài, Tenpa Nyima - đức Panchen Lama thứ IV - đã rất mực kính trọng ngài bởi vì ngài có liên quan đến các bậc đại Đạo sư và để lại bộ máy chính quyền Tây Tạng cho các viên quan nhiếp chính. Trong thời kỳ lãnh đạo của ngài, do hoàn cảnh chiến tranh giữa Tây Tạng và Nepal nên một lần nữa Tây Tạng đã phải chịu sự thống trị của Trung Quốc. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII đã được tưởng nhớ nhiều nhất nhờ vào việc xây dựng cung điện mùa hè Norbulingka cho các vị Đạt-lai Lạt-ma.■
[Tập San Pháp Luân.37.tr,53.2006]