Trang 2 / 2
Giới thiệu
Điều này cho thấy, chuẩn mực quan trọng hơn cả của xã hội dân sự là đạo đức - tức là, xã hội dân sự quan tâm đến cách hành xử có đạo đức và có lợi ích giữa con người với nhau, do đó đức tính công dân là nền tảng của xã hội dân sự. Điều này tương đồng với khái niệm xã hội dân sự mà những người Hy Lạp và La Mã đã hiểu: “Một xã hội được cai trị bằng luật, trong đó luật được xem như là sự biểu hiện đạo đức chung, v.v… và trong đó những người cai trị đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân”. (Anheier, Glasius và Kaldor 2001, tr. 12). Tuy nhiên, khái niệm này không chỉ giới hạn nơi người Hy Lạp và phương Tây. Đúng hơn, tôi nghĩ khái niệm “bất di dịch” về xã hội dân sự này được tìm thấy trong mọi nền văn minh nhân loại, nơi đó phạm vi xã hội hàm chỉ một lãnh vực quan hệ con người được hướng dẫn bằng những nguyên tắc đạo đức.
Khái niệm xã hội dân sự bất di dịch này được nối kết một cách tự nhiên với những tổ chức tôn giáo, mà xuyên suốt lịch sử bất chấp hậu quả ra sao, đã tìm cách thiết lập những giáo phái dựa trên những lời dạy đạo đức của giáo chủ của họ. Cho dù xã hội dân sự hiện đại xem ra khác biệt bởi bản chất thế tục của nó, thì nó vẫn nhấn mạnh những loại đạo đức hành xử, ủng hộ những khái niệm thế tục và hiện đại như dân chủ và nhân quyền chẳng hạn. Về phương diện lịch sử, những gốc rễ của xã hội dân sự hiện đại ở Tây phương dường như đã bắt đầu với sự cải cách của Tin Lành và những nỗ lực theo sau đó của những giáo phái Thiên Chúa giáo mới khác nhau nhằm tạo nên những cộng đồng dân chúng thật sự có đạo đức và ngoan đạo. Cuộc đấu tranh để tạo nên xã hội dân sự hiện đại ở Tây phương là một sự nỗ lực nhằm tái tạo lại những quan hệ đạo đức cộng đồng đang bị tan rã bởi những thay đổi nhanh chóng gây ra bởi công nghệ và khoa học hiện đại, sự phát triển của những khối dân chúng đô thị, và sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống thần học của Giáo hội Thiên Chúa giáo (David Loy 2002).
Nhiều học giả khác nhau, như Toshimaro Ama của Đại học Meiji Gakuin, đã đặt câu hỏi rằng liệu Nhật Bản hiện đại có thực là một xã hội dân sự như những xã hội ở châu Âu hay ở Nam Mỹ hay không. Mặc dù người Nhật có thể thật sự thiếu một ý thức vững vàng đối với khái niệm hiện đại về xã hội dân sự như là một lãnh vực xã hội tách rời khỏi nhà nước và thị trường, tôi cho rằng họ vẫn có ý thức đối với một khái niệm cố định về xã hội dân sự. Rõ ràng, Tịnh Độ hay Nhật Liên tông cấp tiến của triều đại Kumakura (1192-1333) đã cho thấy một kiểu mẫu phong trào xã hội dân sự khi tạo ra những giáo phái được đặt căn bản trên những chuẩn mực tôn giáo mà chúng có giá trị trên cả những cộng đồng xã hội lớn hơn. Vào triều đại Muromacchi theo sau (1333-1573), những giáo phái này đã làm nền tảng cho toàn thể dân chúng thuộc Tịnh Độ tông (Ikko-ikki) và những tín đồ Nhật Liên tông (Hokke-ikki) khởi nghĩa chống lại triều đình.
Trong tiếng Nhật, thuật ngữ chỉ xã hội dân sự là Shimin-shakai (市民社会). Những ký tự gộp thành shimin có nghĩa đen là “thành thị” (市) và “dân chúng” (民). Điều này cho thấy rằng khái niệm của người Nhật về xã hội dân sự là một kết quả tự nhiên của văn hóa đô thị cận đại. Tuy nhiên, Ama lưu ý rằng khái niệm này vẫn chưa được hầu hết những người Nhật, những người có khuynh hướng xem xã hội giới hạn trong thuật ngữ seken (世間) mà nó có nghĩa đen là “thế gian” hay “công chúng”, hiểu một cách đầy đủ. Khác với việc hiểu xã hội dân sự đề cập đến một lãnh vực công chúng tách biệt khỏi nhà nước và thị trường, seken đối với người Nhật thì bao quát hơn và ám chỉ cho điều mà người ta không cố gắng thay đổi nhưng cố gắng điều chỉnh cho phù hợp. Sự phát triển xã hội dân sự cận đại ở Nhật đã bị làm chậm lại bởi sự kiềm chế của nhà nước quan lại và quyền lực của nó (Hardcare, tr. 394-395). Tuy nhiên, việc xâm nhập thường xuyên những quan kiến thế giới từ sự hiện đại hóa bắt đầu vào triều đại Minh Trị (1868-1912) đã dần dần phá vỡ những khái niệm truyền thống của dân chúng Nhật. Điều này có thể trực tiếp nhìn thấy trong lãnh vực tôn giáo, đặc biệt ở trong những phong trào tôn giáo mới (shin-shukyo) của thập niên 20 và làn sóng thứ hai của những tôn giáo mới (shin shin-shukyo) của thập niên 80 thế kỷ XX. Những nhóm này đã tìm cách nói lên sự bất mãn đang gia tăng của người Nhật thành thị, trôi nổi trong một cộng đồng thế giới luôn thay đổi và những giá trị đạo đức không minh bạch.
Tính trung gian của những chuẩn mực luân lý đạo đức, mà chúng thông thường được đặt nền tảng nơi tôn giáo và cung cấp cơ sở cho việc tạo nên xã hội dân sự, có thể giúp chúng ta hiểu được những hoạt động xã hội của các tổ chức Phật giáo ở xã hội Nhật Bản đương thời và để đánh giá phạm vi của một phong trào Phật giáo nhập thế đích thực. Theo đó, những vấn đề lần lượt được đặt ra ở bài viết này là: một phong trào hay một nhóm người đóng góp lợi ích cho xã hội Nhật về mặt đạo đức là bao nhiêu? Và một câu hỏi có lẽ còn quan trọng hơn: mục đích của các tổ chức hay những cá nhân là tập trung đóng góp phúc lợi cho xã hội dân sự - tức là cho công chúng nói chung - hay còn có những vấn đề khác bao gồm trong những hoạt động này? Câu hỏi cuối cùng cần để ý là: những tổ chức Phật giáo này thành công bao nhiêu khi tiếp nối và biểu thị một mô hình xã hội dân sự bản địa thật sự bắt nguồn từ những chuẩn mực tôn giáo và đạo đức thuộc truyền thống Phật giáo của họ, chứ không phải là từ chủ nghĩa nhân văn ảnh hưởng Thiên Chúa giáo của xã hội dân sự phương Tây?
Một hệ thống mô hình Phật giáo nhập thế
Với những vấn đề được đặt ra ở trên, tôi muốn đánh giá khái quát về những kiểu mẫu hoạt động xã hội mà điển hình những Phật tử Nhật đã tham gia vào. Tôi nghĩ chúng ta nên thận trọng ở đây, không cố gán cho một tổ chức thống nhất là chỉ thích hợp với kiểu mẫu này hay kiểu mẫu kia, mà đúng hơn nên xem những kiểu mẫu khác nhau này như là những mô thức hành động mà trong đó một tổ chức đơn nhất có thể ảnh hưởng tất cả, hoặc một vài hoặc không gì cả. Do đó, chúng ta có thể sử dụng hệ thống mô hình này để hiểu sâu hơn sự phức tạp của các hành động của một nhóm, hơn là việc sử dụng nó như là một phương sách nhằm xếp xó chúng.
1. Hoạt động cứu tế
Đây là những hoạt động truyền thống của các tổ chức tôn giáo trong vai trò đương nhiên của chúng như là những điểm trung tâm của xã hội dân sự truyền thống. Ví dụ, ở Nhật Bản thời tiền hiện đại, đặc biệt trong suốt thời kỳ Edo hay Tokugawa (1600-1868), chùa chiền có thể tìm thấy trong mọi ngôi làng và tăng sĩ luôn tham gia vào mọi loại hoạt động khác nhau để hỗ trợ cộng đồng, chẳng hạn như điều hành trường học (terakoya 寺子屋) hay hỗ trợ những đề án hạ tầng của cộng đồng. Trong suốt thời kỳ hiện đại hóa bắt đầu với triều đại Minh Trị, sự xâm nhập tư tưởng phương Tây cùng với việc phát triển các tổ chức hiện đại và thế tục đã tạo nên mối đe dọa đối với vai trò xã hội truyền thống của tăng sĩ và tự viện. Đương đầu với những khủng hoảng này, những tăng sĩ Phật giáo bắt đầu nhìn ra các nước khác, không chỉ ở phương Tây mà cả ở những quốc gia Phật giáo khu vực châu Á, và họ đã phát triển những mô thức hoạt động phúc lợi xã hội hiện đại và mới hơn, như các trung tâm và trường mẫu giáo ngày hôm nay, trong suốt kỷ nguyên Taisho (1912-1926).
Một ví dụ nổi bật là công việc của một vị tăng sĩ thuộc Tịnh Độ tông Shiio Benkyo (1876-1971). Ông đã gây dựng bên trong Tịnh Độ tông phong trào Kyosei (kyosei-kai 共生会). Kyosei đại thể được chuyển dịch là Hội Cộng Sinh, và Benkyo đã đặt ý tưởng này trên học thuyết duyên khởi (pratitya-samutpada) căn bản của Phật giáo. Ông đã giải thích học thuyết duyên khởi trên nền tảng xã hội loài người và nhấn mạnh rằng người ta cần nên nhận biết sự cứu độ của Phật A-di-đà là ở trong xã hội và đời sống hàng ngày. Phong trào này đã khiến nhiều tăng sĩ thuộc Tịnh Độ tông thiết lập những trung tâm bảo dưỡng và trường học ngay trong chùa hoặc ở trong vườn chùa của họ, hoặc tham gia vào những hoạt động công ích xã hội khác. Điều này cho thấy rằng những bước quan trọng ban đầu trong việc tiến hành phát triển xã hội dân sự đã được đặt trên những khái niệm Phật giáo bản địa. Sự phát triển những đề tài phổ quát như vậy được kết hợp với việc tu tập trong đời sống hàng ngày như là một phương tiện cho sự chuyển hóa nội tâm và sự chuyển đổi xã hội thì cũng giống với các trường Phật học mới xuất hiện trong kỷ nguyên này cũng như những tổ chức Tịnh Độ tông (Stone 2003). Tuy nhiên, những phong trào như thế này không trở thành những hoạt động chính thức được các giáo phái xúc tiến như là những hoạt động “phúc lợi xã hội” (shakai fukushi 社会福祉) mãi cho đến sau chiến tranh, và như vậy phần lớn giới hạn nơi sáng kiến cá nhân của những tu sĩ. Hơn nữa, ở đây cho thấy bản chất đạo đức và tư tưởng hệ của những hoạt động này có một vài giới hạn bởi vì chúng không bao giờ được phát triển thành một phong trào thách thức chủ nghĩa dân tộc đang lớn mạnh của chính quyền và xã hội. Mặc dù Benkyo ban đầu cho thấy là chống chiến tranh, nhưng rồi ông vẫn là một thành viên của Nghị viện và là một lãnh đạo tôn giáo ủng hộ chiến tranh mãi cho đến khi nó kết thúc (Eisawa 2002).
Do đó, tôi đã quy cho lĩnh vực đầu tiên này là “cứu tế”, bởi vì bản chất hoạt động xã hội không đưa đến chiều hướng thách thức cấu trúc xã hội đang hiện hành, đặc biệt là về mặt chính trị, mà duy trì nó bằng cách cứu tế hay trợ giúp dân chúng. Trong chừng mực nào đó, những hoạt động này có thể được xem như là một phần của xã hội dân sự, bởi vì chúng tập trung vào việc xác định nguồn lực bên trong cá nhân để hành động cho tích cực và hợp đạo đức trong lĩnh vực xã hội. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, chúng ta không thể xem chúng là những hoạt động xã hội dân sự đích thực bởi vì bằng việc nhấn mạnh vào nguồn lực cá nhân chúng thường bỏ qua những bất công, theo đó trở thành công khai thỏa hiệp với quyền lực áp bức. (Stone 2003)
Điều này được nhìn thấy rõ ràng trong việc Tokugawa Shogunate sử dụng chùa chiền để giám sát dân chúng Nhật thông qua hệ thống đăng ký chùa bắt buộc (danka seido); và ở trong kỷ nguyên hiện đại, được nhìn thấy nơi quy định dành cho những tổ chức tôn giáo thông qua việc thành lập những tập đoàn công ích tôn giáo (shukyo koeki hojin, 公益法人), mà vị trí pháp lý của chúng có thể bị chính phủ phủ nhận (Hardacre, tr. 395). Kỷ nguyên Taisho, chủ nghĩa tích cực của những tăng sĩ Phật giáo có lẽ phần nào hấp thụ khái niệm phục vụ công ích, mà nó cũng là một phương thức còn sót lại của những Phật tử truyền thống nhằm duy trì vị trí của họ trong một thế giới thay đổi nhanh chóng và nguy hiểm của Nhật Bản thời đầu hiện đại với sự thế tục của nó, và những quan điểm Thần Đạo (Shinto) cũng như sự sanh khởi của những giáo phái Phật giáo mới. Do đó, những mô hình hoạt động này thật sự không theo kịp tư tưởng xã hội dân sự bởi vì chúng không đưa ra được một sự lựa chọn nào khác ngoài quyền lực nhà nước. Trong những trường hợp tồi tệ nhất, chúng có thể làm méo mó ý nghĩa chân thực của xã hội dân sự khi duy trì hệ tư tưởng nhà nước xem như là hiện thân đầy đủ của xã hội dân sự và bằng việc dọn sạch những cuộc biểu tình chống áp bức và bất công do một nhà nước áp bức tạo ra thông qua những hoạt động cứu tế của họ.
2. Hoạt động truyền giáo
Những hoạt động này là công việc mà mọi tổ chức tôn giáo đều làm như là phần việc thiết lập tổ chức thành một phong trào quần chúng. Theo truyền thống, những hoạt động như vậy sẽ gửi những phái đoàn truyền giáo đến những địa phương mới để truyền bá giáo lý và sau đó xây dựng chùa chiền tại nơi ấy. Trong thời hiện đại, đặc biệt trong số những tổ chức Phật giáo mới của Nhật, điều này đã được mở rộng thêm bao gồm việc tạo dựng những đoàn thể hoàn toàn mới mẻ bên trong xã hội Nhật rộng lớn qua việc xây dựng trường học, các viện đại học, bệnh viện, v.v… Những hoạt động này đã cố gắng chăm sóc và quan tâm không chỉ nhu cầu tinh thần của cộng đồng mà còn cho cả những nhu cầu vật chất nữa. Như vậy, những hoạt động phổ biến này và những công tác cứu trợ mới mẻ được đề cập ở trên cho thấy xu hướng hiện đại đặc thù là tập trung tiêu điểm vào lợi ích vật chất của dân chúng cũng như lợi ích tinh thần của họ.
Tôi đã quy cho những hoạt động này là “truyền giáo”, bởi vì mặc dù có thể có mục đích đạo đức là làm điều tốt cho người khác, thì ở đó đã có động lực “vị kỉ” cốt lõi nằm phía sau những hoạt động là nhằm xây dựng mục tiêu, sức mạnh và uy tín của tổ chức. Do đó, không thể quy cho những hoạt động này là những hoạt động xã hội dân sự đích thực bởi vì quyền ưu tiên là lợi ích của tổ chức và sự phát triển chỉ ở bên trong nhóm tín đồ, thay vì vào xã hội lớn hơn như một tổng thể. Như vậy, chúng ta có thể nhận ra hoạt động cứu tế qua việc xây dựng một trường mẫu giáo do một ngôi chùa truyền thống thực hiện và hoạt động truyền giáo qua việc xây dựng một ngôi trường trung học do một tổ chức Phật giáo mới tiến hành có một sự khác biệt cơ bản trong động cơ, tức mô hình trước dùng biện pháp phòng thủ nhằm duy trì vị trí trong xã hội, trong khi mô hình sau thì có cách thức tấn công để đạt lấy vị thế ở trong xã hội. Bản chất “tấn công” của những hoạt động này bản thân nó cũng có thể ảnh hưởng như là một sự thách thức đối với xã hội hiện hành, và trong trường hợp những tổ chức Phật giáo mới, dĩ nhiên là một sự thách thức đối với quyền lực hỗ tương của những giáo phái Phật giáo truyền thống và chính quyền nhà nước. Từ lập trường tư tưởng hệ, những tổ chức này có thể giữ được chân lý trong tín ngưỡng của mình khi vượt qua những luật lệ thế tục của nhà nước. Việc nắm giữ như vậy là một đặc điểm dễ thấy nơi lời dạy của ngài Nhật Liên (Nichiren), người đã thực hành theo kinh Pháp Hoa trong khi sử dụng vai trò tu sĩ của mình thách thức nhà nước và sự thiết lập Phật giáo. Dường như rất trùng hợp rằng, hầu hết những tổ chức Phật giáo mới đáng chú ý của Nhật Bản hiện đại phát xuất từ dòng chảy Nhật Liên như Soka Gakkai, Reiyukai, Rissho Koseikai và Nipponzam Myohoji, đều phản ánh một phạm vi tư tưởng đầy đủ mọi mặt.
Về phương diện xã hội dân sự, những tổ chức Phật giáo mới, dễ thấy nhất là Soka Gakkai, đã đề xuất một kiểu mẫu khác về trật tự xã hội, một loại chủ nghĩa cải cách xã hội, khác cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, và được đặt cơ sở trên khát vọng của quần chúng thứ yếu trong suốt thời kỳ hiện đại hóa và gia tăng kinh tế vượt bậc. Trong thời kỳ chuyển đổi xã hội nhanh chóng hậu chiến tranh, dân chúng đô thị phát triển cần một vài điểm tựa tinh thần và sự hỗ trợ xã hội, và Soka Gakkai đặt nền tảng trên Phật giáo rõ ràng đã đáp ứng được những nhu cầu của họ. Đây dĩ nhiên là một loại xã hội dân sự tất yếu không bị nhà nước kiểm soát, đúng hơn là nó đã nhằm mục đích sắp xếp lại phạm vi công chúng thông qua cơ cấu đại diện chính trị. Do vậy, Soka Gakkai đã thành lập đảng Komei vào năm 1964, chủ trương tính minh bạch và phúc lợi, mà cả hai đang thiếu vắng trong thời kỳ phát triển kinh tế vượt bậc này. Do đó, tầm nhìn của một tổ chức tâm linh-xã hội mới của những tổ chức Phật giáo mới như vậy có thể đại diện cho tinh thần chân thực của xã hội dân sự khi đưa ra căn bản quyền lực thay thế quyền lực cố thủ. Tuy nhiên, hoạt động truyền giáo và khả năng “tấn công” của những tổ chức như vậy thường có thể tạo ra những hình thái thỏa hiệp mới với những hình thái quyền lực phi dân sự khác, chẳng hạn như quyền lực thị trường, đối cực mà xã hội dân sự trong đó được cho là đưa ra một khả năng lựa chọn khác. Trong môi trường hết sức tư bản của Nhật sau chiến tranh, sự phát triển công nghệ tang lễ do các nhóm Phật giáo truyền thống thực hiện, sự tiếp thị đại chúng và những hoạt động xây dựng quần chúng của những nhóm Phật giáo mới đã khiến cho Phật giáo đi đến thỏa hiệp với quyền lực tài chính. Như vậy, rất khó khăn để gọi những hoạt động này là hoạt động xã hội dân sự đích thực khi mục tiêu cốt yếu của chúng không phải là phát triển đạo đức xã hội mà là sự phát triển tài chính của chính tổ chức của họ.
3. Hoạt động cải cách
Những hoạt động này phù hợp với điều tôi gọi là những hoạt động xã hội dân sự được phát triển hoàn thiện và đầy đủ, và cũng là điều tôi gọi là một phong trào Phật giáo nhập thế trưởng thành. Cùng với cứu tế và truyền giáo, đây là một mô thức khuôn mẫu mà nó không thể thực hiện được trọn vẹn bất cứ nơi đâu trừ ở những tổ chức Phật giáo bao gồm mọi tầng lớp khác nhau. Có hai đặc tính chủ chốt của loại phong trào này.
Thứ nhất là phê bình tư tưởng hệ về lĩnh vực quyền lực trong xã hội hiện hành. Một sự phê bình như vậy sẽ thiết lập tổ chức vững chắc như là một phần của phong trào xã hội dân sự đích thực, mà nó đưa ra một quan điểm lựa chọn về xã hội tách rời khỏi nhà nước và những tiêu chuẩn quyền lực. Đây là một yếu tố chủ chốt ở trong những phong trào Phật giáo nhập thế ở những khu vực khác của châu Á. Ở Thái Lan và Sri Lanka, sự phê bình này điển hình nhắm đến vấn đề bạo lực và sự phá sản đạo đức của thời kỳ phát triển hiện đại, khi chủ trương một kiểu mẫu Phật giáo duy nhất cho sự phát triển, chẳng hạn như phong trào “Thức tỉnh tất cả” của Sarvodaya ở Sri Lanka và khái niệm “Chủ nghĩa xã hội theo Pháp” (Dhammic Socialism) được đề ra bởi vị Tỳ-kheo người Thái Buddhadasa (Queen và King 1996).
Đặc tính thứ hai là một sự kết ghép của phê bình ý thức hệ này với một phong trào hành động xã hội tiến bộ, được nhìn thấy ở Sri Lanka như là phong trào phát triển nông thôn quy mô của Sarvodaya và công việc phát triển của các Tỳ-kheo ở Thái Lan.
Điểm chủ chốt khi chỉ định cho lĩnh vực này là “cải cách” vì rằng thành phần tư tưởng hệ và hành động xã hội cùng tác động lẫn nhau sâu sắc và tạo ra một sức ép biện chứng ngăn cản một trong hai đi đến thay đổi. Từ quan điểm Phật giáo, chúng ta có thể hiểu được hai đặc tính này là phương thức biện chứng giữa trí tuệ và từ bi. Trí tuệ mà thiếu từ bi có thể lạnh lùng và là công cụ, trong khi từ bi mà thiếu trí tuệ có thể làm cạn kiệt chính nó trong việc ứng dụng không sáng suốt.
Ví dụ, một phong trào mà nó tập trung nhiều vào tư tưởng hệ có thể đánh mất sự truyền thụ của nó trong những hành động phục vụ xã hội căn bản mà thông qua đó nó đưa ra những tình cảm đạo đức. Một sự phê bình tư tưởng hệ mà đánh mất sự truyền thụ như vậy có thể trở nên quá liên lụy với sự phê bình quyền lực của nó và sự ràng buộc của nó với quyền lực, do đó trở nên dễ bị vướng mắc với những lôi cuốn tương tự đối với quyền lực phê bình. Theo chiều hướng có hại, sự phê bình tư tưởng hệ sẽ trở thành một phong trào chính trị gây chia rẽ mà rốt cuộc chính nó có thể kết liên với “những thay đổi chính thể” nơi nhà nước và quyền lực thương mại. Điều này được thấy rõ ràng ở Sri Lanka, nơi mà phong trào Tăng già xác định lại chính mình để chống lại những mối đe dọa của chủ nghĩa tân thời phương Tây, đã biến nó thành một hình thức chủ nghĩa dân tộc được đặt cơ sở trên sự hợp nhất của nhà nước, tôn giáo và dân chúng. Về phía Nhật Bản, xu hướng này có thể được dẫn chứng thêm một lần nữa nơi phong trào Nichiren. Chính Nichiren đã thực hiện một sự phân tích tư tưởng sâu sắc về nhà nước chính trị Nhật Bản trong tác phẩm nổi tiếng của mình - Luận giải về việc thiết lập quốc gia đúng đắn và an toàn (Rissho Ankoku-ron). Tuy nhiên, trong thời kỳ tiền chiến tranh, sự phê bình nhà nước của Nichiren đã bị thiên lệch vào trong một sự hợp nhất tư tưởng tôn giáo của mình với nhà nước để ủng hộ chủ nghĩa đế quốc của Nhật. Điều này được gọi là Nichiren-shuti (chủ nghĩa Nichiren) và được nói rõ trước đó bởi vị tăng sĩ đi trước Nichiren là Tanaka Chigaku (1861-1939), người đã thành lập tổ chức thế tục Rissho Ankoku-kai để ủng hộ Nichiren-shuti (Stone 2003). Ngày nay, Soka Gakkai phục vụ hết sức bí ẩn trong phạm vi này. Trong khi ủng hộ hòa bình thế giới bằng vô số những hoạt động quốc tế, thì trên mặt trận nội địa, họ hình thành nên trụ cột tư tưởng hệ của đảng Komei đầy quyền lực và bảo thủ mà hiện thời nó đứng về phía Nhật ủng hộ sự can thiệp của Mỹ vào Trung Đông. Chính sách này được liên kết với phong trào gửi quân đội ra nước ngoài và sửa đổi hiến pháp hòa bình của Nhật, một hiến pháp mà nhà lãnh đạo của Soka Gakkai là Daisaku Ikeda đã tuyên bố là làm cho Nhật Bản “hoàn toàn có đủ tư cách là người tiên phong để huy động tất cả những lực lượng hòa bình của thế giới, để nắm lấy cương vị lãnh đạo, và để đánh thức dư luận thế giới thông qua Liên Hiệp Quốc (Stone 2003, tr 86). Sự vắng mặt tiếp tục của Soka Gakkai trong những khởi xướng của khối Phật giáo, hòa bình tôn giáo và xã hội dân sự bên trong Nhật Bản củng cố thêm những mối nghi này, và cho thấy phù hợp với triết lý chung của họ về việc không hợp tác với những nhóm tôn giáo khác, Phật giáo hay không Phật giáo.
Mặt khác, một phong trào mà nó thiếu đi sự phê bình ý thức hệ và tập trung tiêu điểm vào hành động xã hội thì có khuynh hướng giống với hoạt động cứu tế của nhiều tổ chức Phật giáo. Điều này rõ ràng có mặt ở trong hầu hết những tổ chức Phật giáo thực hiện hoạt động xã hội ở Nhật Bản ngày nay. Một phần lớn những nhóm này dốc hết tâm trí vào “những hoạt động hợp tác quốc tế”, bao gồm nhiều hình thức cứu tế khác nhau đến châu Phi, Trung Đông, Nam và Đông Nam châu Á. Cũng có một số lớn chuyên bàn suông về hòa bình. Tôi sử dụng từ “bàn suông” bởi vì hầu hết mọi hoạt động đều là thiết lập hội thảo, xuất bản ấn phẩm và tuyên ngôn, trong khi hầu như không có sự phê bình nào về sự thỏa hiệp kinh tế và chính trị của Nhật Bản với tình trạng xung đột khắp nơi trên thế giới. Công chúng nói chung của Nhật luôn được dạy dỗ để đổ lỗi những vấn đề này cho Hoa Kỳ, thay vì nghiên cứu xem những nhu cầu của họ về dầu lửa và năng lượng dưới lòng đất cũng như lối sống tiêu thụ của họ đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì quyền bá chủ của Mỹ trên thế giới như thế nào. Từ viễn cảnh Phật giáo, Miến Điện có thể là một ví dụ rõ ràng nhất về sự thỏa hiệp và thiếu phân tích xã hội này của Nhật. Miến Điện, một quốc gia thành viên Phật giáo chính yếu, đã chịu một chế độ quân sự độc tài hà khắc trên bốn mươi năm. Tuy thế những tổ chức Phật giáo ở Nhật đã không thực thi nỗ lực có hệ thống để giáo dục quần chúng về vấn đề này và để đưa đến một chiến dịch nhất quyết chống lại những hoạt động thương mại của Nhật và việc viện trợ nước ngoài của Nhật mà nó yểm trợ cho chính quyền đó. Trong khi một vài tạp chí Phật giáo ở Nhật quảng cáo việc chào bán gỗ của Miến Điện sử dụng trong việc xây dựng lại chùa chiền, thì Thiên Chúa giáo Tây phương tiếp tục là người lãnh đạo trong việc cứu trợ và thương mại đã tẩy chay tập đoàn quân nhân Miến Điện. Cần nên ghi nhớ rằng Phật giáo ở Nam và Đông Nam châu Á cũng không thể thay đổi quan điểm của chính phủ họ về Miến Điện. Tuy nhiên, Nhật Bản rõ ràng khác với họ trong mức độ phát triển kinh tế và trách nhiệm dân chủ mà nó ngang tầm với Tây phương.
Kết luận
Chính vì điểm này mà tôi nêu ra vấn đề là tại sao Phật tử Nhật vẫn còn phải phát triển sự phê bình ý thức hệ mạnh mẽ của họ được đặt cơ sở trên những lời dạy của Phật giáo mà nó hòa hợp với một kiểu mẫu hoạt động xã hội ủng hộ một xã hội dân sự đích thực như lãnh vực đạo đức chung tách rời khỏi nhà nước và quyền năng thương mại. Người ta có thể giải thích rằng bởi vì Nhật Bản không bị chủ nghĩa thực dân Tây phương đô hộ, nên nó không bao giờ phải tìm kiếm và phát triển những giá trị bản địa, như Phật giáo, như là vai trò của một cuộc đấu tranh giành độc lập. Tuy nhiên, Thái Lan cũng không bị thuộc địa như Nhật, nhưng đã phát triển thành một trong những hình ảnh Phật giáo nhập thế phong phú nhất như là một sự thay thế cho quyền lực chủ nghĩa tân thời Tây phương. Cũng có sự giải thích khác rằng, nguyên nhân có thể do vai trò cố định của Phật giáo trong ý thức hệ lập quốc từ sự khởi đầu của nó ở Nhật Bản. Như chúng ta thấy ở mục những hoạt động “cứu tế”, Phật giáo Nhật Bản luôn gắn chặt với nhà nước. Do đó, những mối liên hệ mật thiết của Phật giáo với Tokugawa Shogunate đã đóng một vai trò chủ chốt trong việc tự gạt bỏ nó trong suốt thời kỳ đầu hiện đại hóa của triều đại Minh Trị. Giáo sư Jun Nishikawa của đại học Waseda đã giải thích rằng cả thời kỳ đầu hiện đại hóa và thời kỳ hậu chiến tranh đã đánh dấu một sự đa dạng lớn lao những hệ thống giá trị của dân chúng Nhật. Bởi vậy, Nhật Bản đã phát triển một mô hình hiện đại hóa thế tục không có tôn giáo lớn hơn khi so sánh với những xã hội Phật giáo ở Nam và Đông Nam Á. Lâu sau đó, khi các quốc gia này bước vào thời kỳ hiện đại hóa mạnh mẽ, đã nói lên rằng Phật giáo đã sống lại vững chắc hơn như một hệ tư tưởng bản địa phục vụ nhu cầu của những nhà cải cách địa phương. Cũng cần nên nhớ rằng, bản chất môn phái quyết liệt của Phật giáo Nhật Bản cho thấy một tầm nhìn rất thiếu hệ tư tưởng đồng nhất về xã hội so với truyền thống hòa hợp của Theravada phổ biến ở Nam và Đông Nam châu Á.
Do đó, xã hội dân sự Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc khái niệm thế tục (chủ nghĩa nhân văn) và duy vật (chủ nghĩa xã hội) của Tây phương. Vì thế, Phật giáo thường không được xem như là một đối lực mà là một nguồn an ủi. Nhân đây tôi xin kể một câu chuyện đặc biệt về một người bạn cũ mà nó đã tác động đến tôi. Cô ấy đã làm việc tích cực nhiều năm cho một tổ chức phi chính phủ và trong những hoạt động xã hội dân sự, và cũng là một Phật tử nhiệt tâm thuộc Nhật Liên tông. Tổ chức này thực hiện các đề án về phát triển và những giải pháp hòa bình. Tổ chức này cũng như nhiều tổ chức phi chính phủ nhiệt tình tích cực khác của Nhật, đã có một căn bản Mác-xít cho hệ tư tưởng của mình. Rốt cuộc là cô ấy đã thấy mình không thể làm việc cho họ được nữa bởi vì thỉnh thoảng sự kỳ thị công khai đã bóp nghẹt niềm tin và thực tập của cô ấy. Riêng cá nhân tôi, trong khi làm việc nhiều năm ở Thái Lan cho một tổ chức Phật giáo phi chính phủ lớn, tôi luôn cảm nhận được một sự thân thiết vô cùng từ dân chúng khi họ hiểu được công việc của tôi. Trong khi đó, tôi nhận thấy sự việc hầu như trái ngược ở Nhật Bản, nơi dân chúng thường nghi ngờ rằng tôi đang hợp tác với một nhóm cúng bái, ngay cả khi có sự hiện diện của một giáo phái Phật giáo lớn như Tịnh Độ tông.
Sự nhận thức chung này về Phật giáo và xã hội Nhật Bản hiện đại đã có ảnh hưởng lớn lao trong việc làm chậm lại sự phát triển Phật giáo nhập thế mạnh mẽ ở Nhật. Sự thế tục hóa toàn diện và tư nhân hóa thực hành Phật giáo ở Nhật Bản hiện đại cũng đã làm chậm đi sự phát triển những sáng kiến của các tăng sĩ quan tâm đến xã hội, họ luôn gặp khó khăn khi thuyết phục tín đồ của mình về những hành động mà họ mong đảm nhận cho xã hội. Hơn nữa, khi văn hóa thế tục, đặc biệt ở trong giáo dục, đã đi nhanh hơn văn hóa truyền thống Phật giáo, thì các tăng sĩ hiếm khi được nhìn nhận như là những nhà lãnh đạo trí thức trong xã hội. Sự lựa chọn một lối sống thế tục bởi các tăng sĩ Nhật, điều đáng chú ý nơi Phật giáo Nhật, cũng đã cướp đi của họ quyền lực đạo đức mà một tăng sĩ đạt đạo có ở trong quá khứ (Tomatsu, 1995). Các tăng sĩ Phật giáo và một vài tín đồ nhiệt tâm vẫn còn tham gia vào những hoạt động xã hội dân sự, nhưng vẫn luôn “ở trong căn phòng nhỏ” Phật giáo của họ. Điều này đã tạo ra tình trạng về một loại phong trào Phật giáo nhập thế kín, nơi mà nhiều cá nhân cố gắng tạo ra những hoạt động xã hội dân chủ và quốc tế vẫn rất ít thấu hiểu lẫn nhau. Để tìm phương thuốc cho tình trạng này mà mạng lưới Phật giáo phi chính phủ đã được hình thành vào năm 2002.
Nguyên Hiệp dịch (còn tiếp)
[Tập san Pháp Luân - số 48, tr.28, 2007]
Tìm hiểu về Phật giáo nhập thế ở Nhật Bản - Phần 1
Typography
- Smaller Small Medium Big Bigger
- Default Helvetica Segoe Georgia Times
- Reading Mode