Các chương trình Video thuyết pháp

Typography

Một số nhận định và đề xuất về các chương trình video thuyết pháp

Nhìn chung, các chương trình video thuyết pháp phổ biến tại Việt Nam trong thời gian gần đây đã có những bước tiến lớn về mặt kỹ thuật: hình ảnh khá đẹp, âm thanh phần nhiều rõ, dễ nghe… Tuy chưa có thể nói là đã đạt tiêu chuẩn chương trình truyền hình chuyên nghiệp, nhưng dù sao, cũng đã đáp ứng được yêu cầu được xem các chương trình video thuyết pháp của Tăng Ni, Phật tử. Nhờ vậy, những buổi thuyết pháp chỉ có vài trăm người dự tại chính điện hay giảng đường các chùa đã có thể có đến vài ngàn, thậm chí hàng chục ngàn người theo dõi qua màn ảnh TV.

Nhiều chương trình ghi lại các buổi thuyết pháp trong nước đã vượt qua khoảng cách không gian đến được với đông đảo Tăng Ni Phật tử ngoài nước, mở rộng hầu như không giới hạn số người có duyên lành thính pháp. Những chương trình thuyết pháp giá trị đã có thể lưu giữ để Tăng Ni Phật tử có thể xem đi xem lại nhiều lần, phục vụ hữu hiệu cho hoạt động tu học và tạo thuận duyên cho thế hệ mai sau có thể xem được các buổi thuyết pháp của những vị tôn đức hiện tiền. 

Tuy nhiên, vấn đề nâng cao kỹ năng và chất lượng ghi hình vẫn là yêu cầu lớn đối với việc thực hiện các chương trình video thuyết pháp. Có được chất lượng kỹ thuật tốt và ghi hình đúng kỹ năng, những bài pháp có nội dung giá trị mới trở thành những tác phẩm Phật học ghi hình toàn vẹn. Một tác phẩm Phật học in trên giấy nếu có thiếu sót về kỹ thuật chế bản in ấn, sau này lớp hậu học có thể đánh máy văn bản, thực hiện chế bản, trình bày lại, nhưng một chương trình video thuyết pháp của một vị Trưởng lão Hòa thượng, nếu chất lượng kỹ thuật và kỹ năng hình ảnh giới hạn (hình mờ, sai quy phạm, âm thanh không rõ, v.v… chẳng hạn) mà không có điều kiện thực hiện lại tốt hơn, thì vẫn phải chấp nhận lưu truyền cho thế hệ sau với tình trạng rất đáng tiếc như vậy. Cũng cần lưu ý rằng, hầu hết các chương trình video thuyết pháp Phật giáo đã thực hiện đều không theo trình tự ghi nhận một buổi thuyết pháp theo trình tự truyền thống kinh điển Phật giáo. Các chương trình băng dĩa thuyết pháp thường đi thẳng vào phần nội dung thuyết pháp, không có phần giới thiệu địa điểm, giai đoạn tập hợp người nghe pháp và giới thiệu đối tượng tham dự buổi thuyết pháp. Một số chương trình thuyết pháp còn không có ngay cả phần niệm Phật mở đầu và cắt bỏ phần hồi hướng cuối buổi thuyết pháp. Xin đề xuất, các chương trình video thuyết pháp nên có đầy đủ các bước truyền thống của kinh điển. Mở đầu, nên có hình ảnh giới thiệu địa điểm thuyết pháp theo trình tự từ rộng đến hẹp, từ bao quát đến cụ thể, hình ảnh giới thiệu người tham dự (chúng hội), hình ảnh cung thỉnh giảng sư, trang  nghiêm pháp hội, niệm Phật khai kinh… Ngoài ra, còn có thể giới thiệu thời điểm pháp hội bằng chữ hiện phía dưới, hoặc bằng bảng hiện thị… Để rõ ràng, phần chính văn kinh điển có thể thể hiện bằng bảng chữ để người xem tiện theo dõi và có ý thức rõ đâu là lời kinh, đâu là lời giảng sư.

Để tạo sự sinh động thay đổi, một số chương trình thuyết pháp có xen những đoạn hình ảnh minh họa, thí dụ nói đến cảnh địa ngục thì xen hình ảnh đóng giả cảnh ma quái, khi bài nội dung bài pháp đề cập đến việc bất hiếu thì cho xen hình ảnh đóng cảnh con chửi mắng cha mẹ… Theo chúng tôi, cần nên dè dặt, vì có thể những minh họa được sử dụng có thể đơn giản, ấu trĩ, hời hợt, không phù hợp giá trị bài thuyết pháp. Chỉ cần tập trung thực hiện chương trình video thuyết pháp theo quy phạm một chương trình thu hình một buổi diễn thuyết thông thường là đủ. Chú ý thể hiện, với thời lượng thích hợp, toàn cảnh buổi thuyết pháp, trung cảnh, trung cận cảnh, cận cảnh, đặc tả đối tượng giảng sư, hình ảnh thính giả tham dự buổi thuyết pháp để đạt mục tiêu phản ánh một cách trung thực, đầy đủ trọn vẹn buổi thuyết pháp, giúp người xem cảm nhận một cách chính xác, lãnh hội được nội dung và tinh thần buổi thuyết pháp.

Hiện nay, tuyệt đại đa số các chương trình thuyết pháp là các chương trình thuyết giảng một chiều, chỉ một người giảng sư nói với đông đảo người tham dự, thiếu hẳn các chương trình đối thoại, tham vấn, tọa đàm, nhiều phía qua lại. Chúng ta nhớ rằng, chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong kinh điển là các cuộc đối đáp giữa đức Phật với nhiều đối tượng là đệ tử Phật trong Tăng đoàn, đệ tử cư sĩ, vua chúa, quan lại, vương công quý tộc, thương nhân, nô lệ, thậm chí người ngoại đạo… Và đó đều là những bài pháp.

Ngày nay, ở truyền hình, các chương trình diễn thuyết một chiều được xem là không thu hút bằng các chương trình đối thoại, phỏng vấn, tranh luận... Thiết nghĩ, các chương trình video thuyết pháp nên chú trọng nhiều hơn đến hình thức tọa đàm, luận đạo tham vấn… Ở đó, giảng sư trả lời câu hỏi của Tăng Ni Phật tử, hay của những người chỉ mới bắt đầu tìm hiểu Phật giáo… Trên các kênh truyền hình Phật giáo Đài Loan, Thái Lan và các chương trình truyền hình Phật giáo trên các kênh sóng quốc gia của Myanmar, Campuchia… cũng rất phổ biến thể loại phỏng vấn, tọa đàm, không phải thuyết giảng một chiều từ đầu đến cuối, mà đan xen những câu hỏi/trả lời, cấu thành một chương trình giảng pháp sinh động, thu hút khán giả có thể có mặt tại giảng đường, chánh điện, phim trường, v.v… trực tiếp phát biểu câu hỏi, hoặc nêu câu hỏi qua người dẫn chương trình, biên tập viên, hoặc không có mặt tại chỗ mà gởi thư, fax, gọi điện, gởi email, v.v… để nêu câu hỏi. Việc trả lời có thể do một giảng sư, hay nhiều giảng sư cùng trả lời, bàn luận một câu hỏi, một đề mục…

Hầu như các chương trình video thuyết pháp Phật giáo Việt Nam đều được ghi hình tại lớp học, giảng đường, chánh điện, lễ đài. Đề xuất, có thể bổ sung các hình thức khác để tạo sự phong phú, như thuyết pháp trong vườn, ngoài trời khi đi hành hương... Chương trình không giới hạn ở phương thức ghi hình một buổi diễn giảng được tổ chức sẵn, mà có thể tổ chức thuyết giảng trong studio (các kênh truyền hình Phật giáo Đài Loan sử dụng nhiều phương thức này), tổ chức thuyết giảng để ghi hình trong giới hạn hẹp (số người nghe tượng trưng). Tuy nhiên, việc ghi hình tại lớp học, giảng đường… là những chương trình dễ thực hiện, chi phí thấp vẫn là phương thức nên ưu tiên khai thác.

Thực hiện chương trình video thuyết pháp: rất đơn giản

Không cần phải qua lớp học quay video, mà chỉ cần thực tập vài lần với camera, thì đã có thể thực hiện được các chương trình video thuyết pháp.

Camera cần đặt trên chân máy, ở vị trí cách giảng sư vài mét. Nên bố trí trực diện để có thể có được hình ảnh vị giảng sư nhìn thẳng vào ống kính, không để nguồn ánh sáng lớn (từ đèn, cửa chính cửa sổ…) trong khuôn hình thu được hoặc phía sau vị giảng sư, vì những nguồn ánh sáng này có thể làm hình ảnh khuôn mặt vị giảng sư tối lại (camera tự động điều chỉnh ánh sáng, căn cứ vào nguồn ánh sáng đó chứ không theo mức độ ánh sáng khuôn mặt vị giảng sư). Tốt hơn nữa, nên có một nguồn sáng chiếu vào vị giảng sư.

Khung ảnh vị giảng sư có thể lấy từ nút áo ngực thứ nhất trở lên (như ảnh 3x4) hay từ nút áo thứ 3.

Âm thanh nên lấy từ micro đặt ngay trước mặt, hoặc cài trên áo vị giảng sư

Thu hình một buổi thuyết pháp là thu hình hoạt động của một người suốt tại một địa điểm cố định với nguồn ánh sáng ổn định nên dễ dàng, đơn giản hơn nhiều so với tất cả các trường hợp ghi hình khác. Do đó, mỗi chùa, mỗi Tăng Ni đều có thể tự thực hiện. Chi phí cho thiết bị chất lượng tốt có thể chỉ từ 5-10 triệu đồng. Nếu chùa có thiết bị để tự thực hiện chương trình video thuyết pháp thì sẽ tiết kiệm chi phí rất nhiều so với việc đi thuê dịch vụ bên ngoài.

Nếu cần thấy được hướng dẫn thêm, quý độc giả có thể nêu yêu cầu với tòa soạn, chúng tôi sẽ có bài chỉ dẫn chi tiết.

Ngoài tác dụng phục vụ hoạt động hoằng pháp, các chương trình video thuyết pháp còn có giá trị như là kỷ niệm của các vị tôn túc trưởng lão để lại cho môn đồ. Nếu trong các dịp húy kỵ các bậc tiền bối đã viên tịch, môn đồ pháp quyến qua TV có dịp thấy lại được hình ảnh các ngài và nghe lại lời các ngài giảng, thì đó sẽ là một điều rất có ý nghĩa.■ 

[Tập San Pháp Luân.32.Tr,43.2006]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.