Đâu là nguồn chân hạnh phúc?

Typography

Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tinh xá Kỳ Hoàn, hay tinh xá Trúc Lâm.


Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tinh xá Kỳ Hoàn, hay tinh xá Trúc Lâm. Hai nơi này là nơi hội tụ Tăng đoàn rất đông và chính nơi đây, Ngài đã khai thị cho khá nhiều những vị Tỳ-kheo xuất gia từ hàng vương giả cho đến giới bình dân. Thế nhưng, không phải mọi người đều lãnh hội chân lý thậm thâm vi diệu trong cùng một thời điểm mà mỗi người lãnh hội tùy theo khả năng nhận thức và suy nghĩ của riêng mình; cũng như một trận mưa xuống cây cỏ đều được hấp thụ. Song tùy theo từng loại thảo mộc mà thấm nhuần có nhiều ít. Suốt cuộc đời hành đạo và hóa đạo, Ngài tùy căn cơ đồ chúng mà giảng dạy, không phải ai cũng tuệ tri tánh tướng của sự vật một cách triệt để mà sự nhận thức có sai biệt theo quan kiến của từng người. Đây là câu chuyện của bốn vị Tỳ-kheo đàm luận trong một buổi chiều êm ả bên cạnh Kỳ Viên tinh xá với nội dung “đâu là nguồn chân hạnh phúc?”.

Bóng tà dương đang xuống dần sau dãy núi Malaya (Hi-mã-lạp-sơn). Gió muôn phương thổi lại, mang hương hoa về ướp thơm cảnh vật nơi tinh xá Kỳ Hoàn vào một chiều xuân. Cỏ cây làng mạc đượm vẻ thái bình, thanh tĩnh trong buổi hoàng hôn ấy.

Giữa thiên nhiên êm đềm, vừa ẩn vẻ hùng tráng, bốn vị Sa-môn cùng ngồi bàn luận dưới gốc cây cổ thụ trong tinh xá. Mỗi người đều có cảm giác rất riêng trong không gian thanh vắng như thế. Bỗng một vị lên tiếng bảo: “Này, các đạo huynh! Chúng ta hãy nghiệm xem trong đời có điều chi đáng yêu và thích thú nhất?”. Nghe vị ấy nói, cả ba đều tỏ vẻ tán thành nói tiếp: “Hay lắm, chúng ta mỗi người nên suy nghĩ, rồi đưa ra quan niệm của mình để giải đáp xem ai đưa ra điều thích thú có lý nhất?”

Sau một hồi suy nghĩ, hình dung trong tâm tưởng, vị thứ nhất lên tiếng: “Theo tôi, vào tiết trong xuân, cỏ cây khoe sắc, muôn hoa hàm tiếu, chim hót líu lo, cảnh sắc như thắm đượm sự hiền hòa, phong cảnh thật là đẹp! Trong lúc ấy, ví ta được thả chiếc thuyền nhẹ theo dòng nước, hay mang bầu rượu đến sườn non thưởng ngoạn cảnh vật của đất trời, chắc trong đời không chi thích thú bằng!”

Vị thứ hai đáp: “Theo ý tôi, cảnh gia đình sum họp sau bao năm xa cách vẫn là vui nhất. Thế nhưng, cảnh sum họp ấy nếu có thêm vào đấy những sơn hào hải vị cùng rượu quý bên cạnh những điệu nhạc khoan nhặt, tiết tấu êm tai, với bao kĩ nữ tuyệt sắc cận kề, thì tôi thiết tưởng hạnh phúc trong đời chỉ trong ngần ấy!”

Vị thứ ba nói: “Tôi nghĩ, nếu ta được sanh ra trong dòng tôn quí giàu sang, ở cung vàng điện ngọc, châu báu đầy kho, ta muốn tận hưởng điều chi tùy thích. Khi ra đi, có xe ngựa, tôi tớ nâng chân sửa áo phục tùng. Về đến nhà, ta gọi đến lắm kẻ kính thưa hầu hạ! Trong cảnh ấy, thử hỏi còn hạnh phúc nào hơn? Theo ý tôi đó là hạnh phúc tột bực.”

Vị thứ tư lại bảo: “Cuộc đời này nếu chúng ta muốn tiền thì cũng có thể kiếm được, muốn có địa vị dùng tiền đổi lấy, rồi từ địa vị ta lại kiếm được tiền, điều ấy có lẽ còn dễ hơn tìm kiếm giai nhân. Nếu người nào có được đôi ba nàng hầu tuyệt sắc, kẻ ấy chưa chắc vua chúa sánh bằng. Còn hạnh phúc nào hơn khi cùng những người đẹp ngắm cảnh sơn thủy bâng khuâng hưởng lạc non hồng, lúc nghe giọng hát du dương, ngơ ngẩn như vào động bích, lại có lúc cùng người đẹp cạn chén đồng tâm, thỏ thẻ bên tai những lời êm ả, cùng ngắm mây xanh bàn câu phong nguyệt, chắc rằng hạnh phúc giữa trần gian không qua mấy điều tôi vừa kể.”

Sau khi nêu lên suy nghĩ của mình, bốn vị đều cho ý nghĩ của mình là đúng nhất, không ai chịu thua, cùng nhau tranh luận, bất phân thắng bại.

Bấy giờ, cách đấy không xa, đức Thế Tôn đang đi kinh hành quanh tinh xá Kỳ Hoàn, nghe sự bàn luận ấy, Ngài động lòng thương xót cho bốn vị Tỳ-kheo kia, liền bước đến hỏi: “Các ông bàn luận chuyện gì thế?” Bốn vị Tỳ-kheo không dám che giấu, phải đem sự thật thưa lên Ngài. Đức Phật bảo: “Những điều các ông vừa nói, đều là đường lối đi  vào sự lo sợ, đau buồn, là địa ngục không có lối thoát, không phải hạnh phúc lâu dài, chân thật. Vì sao?”

Cảnh vật dù có tươi đẹp trong mùa Xuân, nhưng sang mùa Thu, đến Đông phải tàn tạ, héo gầy. Thân quyến tuy sum họp, vui cười, song có lúc sẽ phải đau khổ vì nỗi chia lìa cách biệt. Tiền của, xe ngựa là những vật không lâu bền, là những thứ ở ngoài thân, khi chết không đem theo được, đến như sắc dục là mối nguy hại vô cùng, nó làm cho con người thân thể suy mòn, tinh thần mờ mịt, chính vì sắc dục làm quốc gia suy vong vì những kẻ tham đắm nó. Những vấn đề các ông bàn luận ở đây đều là mối nguy hại, đều là con đường bước vào đau khổ triền miên, chính nó là nguyên nhân cho sự luân hồi bất tận. Chỉ có cảnh Niết-bàn là sáng suốt, thường còn, an vui trong sạch, đấy mới là nguồn hạnh phúc chân thật. Là Sa-môn, từ thân cắt ái, đoạn trừ những tham muốn nhiễm ô, lánh trần tìm đạo, các ông đừng để cho sự vui giả dối ám ảnh, mà tiến theo con đường chân chánh sáng suốt của mình”.

Nơi đây, đức Thế Tôn khuyên nhắc các vị Tỳ-kheo nên là kẻ thừa tự pháp, chứ không nên là kẻ thừa tự vật và Ngài nêu lên lý do tại sao thừa tự pháp tốt hơn. Bởi vì:

Bởi vì nếu chúng ta thừa tự tài vật thì cả thầy lẫn trò đều bị chê trách.
Là đệ tử của Phật  chúng ta không nên bám víu vào của cải vật chất.
Vì thừa tự pháp giúp chúng ta sử dụng tài vật hợp lý.
Với pháp, chúng ta sẽ hạnh phúc trong giờ phút hiện tại, trong khi người đi tìm vật chất chỉ sống với quá khứ và tương lai.
Của cải vật chất chỉ làm ta thèm muốn có thêm, pháp giúp ta dù có ít tài vật vẫn vui.
Những ai thừa tự pháp không bao giờ khổ vì thiếu hụt vật chất, còn thừa tự tài vật thì thường nghèo nàn về pháp tài.
Pháp là vô hạn còn vật chất thì có giới hạn.
Đôi khi tài vật gây tai họa cho mình và kẻ khác.
Pháp dẫn đến giải thoát và dứt nhiễm ô, còn vật chất làm người ta thêm bám víu vào sanh tử.
Pháp không gây nhân chiến tranh xung đột nhưng vật chất thường là nguyên nhân.
Pháp không thể bị hủy diệt còn vật chất là thứ khả hoại, tài sản có thể bị cướp mất, nhưng ngay cả cái chết vẫn không thể cướp đi pháp tài.
Pháp khó gặp, tài vật dễ gặp.
Vật chất chỉ cứu cái xác, pháp cứu cả thân lẫn tâm.
Pháp dẫn đến dứt khổ, còn tài vật là nguyên nhân của khổ đau.
Pháp là nguồn gốc của mọi thiện pháp, tài vật thường là nguồn gốc của tội ác.
Pháp là vô giá, tài vật chỉ có giá trị nhất thời.
Pháp khiến tâm thanh tịnh, tài vật làm tâm ô nhiễm.
Pháp giúp cho ta tìm ra nguyên nhân của khổ, con đường dẫn đến diệt khổ còn tài vật chỉ tăng thêm lòng tham luyến thế gian.
Pháp mang lại sự thanh tịnh tâm hồn, tài vật mang lại sự lo âu buồn bã.
Pháp đi vào tim ta, còn tài vật chỉ ở năm cổng giác quan.
Pháp giúp ta yêu thương kẻ khác, còn tài vật là nguyên nhân khiến người ta ghét nhau.
Pháp giúp ta sáng mắt dễ thấy rõ sự đời, còn tài vật thì làm ta mù mắt vì tham. (Kinh Thừa tự pháp-số 3-TBộ I).

Và cũng trong chiều hôm ấy, đức Thế Tôn nhắc lại bài kệ:

Thương mừng sinh lo
Thương mừng sanh sợ
Biết rõ thương mừng
Đâu còn lo sợ.

Ham muốn sinh lo
Ham muốn sinh sợ
Nếu không ham muốn
Đâu còn lo sợ.

Ái dục sinh lo
Ái dục sinh sợ
Nếu không ái dục
Đâu còn lo sợ.

Ưa pháp trong sạch
Lòng thành biết thẹn
Sửa mình, gần đạo
Được chúng yêu mến.

Xa lìa thị dục
Nghĩ rồi mới nói
Lòng không tham ái
Sẽ thoát luân hồi.
(PC Thí dụ 50).

Đức Phật lại kể cho các vị Tỳ-kheo: “Về kiếp trước, có một vị quốc vương tên Phổ An, kết bạn thân với bốn ông vua bên nước láng giềng. Một hôm, vua Phổ An mời bốn người bạn sang nước mình hội yến. Tiệc hoa kéo dài đến một tháng, đàn ca, sáo thổi, thức ngon vật lạ đã làm cho tình thân hữu càng thêm đậm đà khắn khít. Đến ngày chia tay, vua Phổ An hỏi bốn người bạn rằng: “Trên đời có thú chi vui nhất?” Bốn vị quốc vương đều theo chỗ ưa thích tuần tự đưa ra mấy quan điểm: “Cuộc dạo chơi-gia đình sum họp-giàu sang sắc dục”. Vua Phổ An nói: “Những quan điểm của các ông nói là gốc của khổ não là nguồn lo sợ trước vui sau khổ, sầu lo muôn mối đều do đây mà ra chi bằng tịch tĩnh vô cầu vô dục, đạm bạc thủ đạo là an vui nhất.” Theo ý kiến của tôi: Những điều các ông bàn luận đều là thú vui mong manh, và nguyên nhân của đau khổ. Chỉ có đạo trong sạch là vui nhất.”
“Này chư Tỳ-kheo! Vua Phổ An thuở trước chính là thân ta ngày nay, còn bốn vị quốc vương kia là tiền thân của các ông đấy. Kiếp xưa, ta đã giải rõ sự khổ vui tận tường mà các ông vẫn còn ham mê tham đắm, chưa thấu hiểu và không nhận ra nên mới trôi lăn trong biển sanh tử cho đến đời này. Nếu hôm nay các ông không xem lại hành vi và ý niệm của mình, không gia công tu tập thì bánh xe sống thác khổ đau chưa biết bao giờ dừng nghĩ. Các ông hãy là kẻ thừa tự pháp thì chắc chắn hạnh phúc chân thật không ngoài tâm ý của các ông.”

Ghi chú:
Heirs In the Dharma (Thừa tự pháp) -Trung Bộ I.
Kinh Pháp cú: phẩm Hiếu hỉ thứ 26 thí dụ 50.
Phỏng tại phẩm Hiếu hỉ 26 kinh Pháp cú thí dụ 50.
Phỏng theo thí dụ 50, phẩm Hiếu hỉ, kinh Pháp Cú.

[Tập san Pháp Luân - số 21, tr.44, 2006]

BLOG COMMENTS POWERED BY DISQUS

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.