Đùa chơi với khổ

Typography

Đức Phật dạy: “Đây là khổ”, nghĩa là Ngài muốn ta mở to đôi mắt ra để trực diện và đùa chơi với khổ đau như đùa chơi với trẻ thơ...

Khổ là một sự thực của cuộc sống con người, nếu bạn không biết đùa chơi với nó là bạn đã mất đi rất nhiều cơ hội để tiếp xúc và nhận diện sự thực, đồng thời bạn cũng đã mất đi rất nhiều cơ hội để trưởng thành và hiểu được ý nghĩa đích thực của hạnh phúc.

Một nhạc sĩ nào đó đã viết: “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người”. Như vậy, theo nhạc sĩ, con người đích thực phải là con người đã từng trải khổ đau và phải trưởng thành ngay trong khổ đau. Nhưng sự khổ đau của con người dưới cách nhìn của các nhà tôn giáo là những thiên thần bị đọa.

Các thiên thần vốn sống thênh thang nơi cõi trời thơ mộng, bỗng theo hương, nên bị gió ngàn cuốn vào đồng nội, chạm thanh sắc và xúc nếm vị trần, thoáng chốc gãy cánh và bị sà xuống nơi cõi đời lận đận, đi giữa đường trần với những tháng ngày cát bụi gió bay, nên sống và chết chỉ cách nhau trong một hơi thở; khổ và vui chập chùng theo nhau trong từng ý niệm; rủi và may cùng gợn lên trong một dòng chảy đục trong, nụ cười và tiếng khóc ẩn hiện thay nhau trên một vẻ mặt con người và thành công hay thất bại của một đời người đã có ngay nơi dấu hiệu co duỗi của một bàn tay hay nó có ngay nơi khởi điểm và sự chuyển động của mỗi bước chân đi!

Sống trong những sự thế thiên diễn và bị động như vậy, con người làm sao có hạnh phúc, không có hạnh phúc tất nhiên khổ đau có mặt, nên khổ đau là một sự thực của cuộc sống con người, bạn làm sao mà có thể chối từ chúng. Bạn không chạm trán với khổ đau, bạn sẽ không bao giờ hiểu được giá trị đích thực của hạnh phúc là gì?

Bạn hãy thực tập đùa chơi với khổ đau như ngày xưa đức Phật đã từng đùa chơi với chúng. Tại Vườn Nai, đức Phật đã nói với năm anh em Kiều Trần Như rằng: “Đây là khổ. Đây là tập. Đây là diệt. Đây là đạo. Đây là khổ nên biết. Đây là tập nên đoạn. Đây là diệt nên chứng. Đây là đạo nên tu. Đây là khổ ta đã biết. Đây là tập ta đã đoạn. Đây là diệt ta đã chứng. Đây là đạo ta đã tu”.

Đức Phật dạy: “Đây là khổ”. Như vậy, Ngài đã nắm trọn vẹn cái khổ như nắm trọn vẹn một trái cam trong lòng bàn tay và thanh thản nhẹ nhàng đưa nó lên và xoay nó mọi chiều cho mọi người cùng thấy. Không những Ngài chỉ nắm trọn vẹn mọi hình thái biểu hiện của khổ đau mà còn nắm trọn vẹn bản chất và mọi đặc tính của nó nữa, để chỉ rõ cho những ai có mắt thì có thể thấy, và những ai có trí thì ngay đó, có thể nhận ra mọi sự thực của vấn đề.

Đức Phật dạy: “Đây là khổ”, nghĩa là Ngài muốn ta mở to đôi mắt ra để trực diện và đùa chơi với khổ đau như đùa chơi với những trẻ thơ, hoặc đùa chơi với trái cam trong lòng bàn tay, hay đùa chơi với một chiếc bong bóng mà không phải nhắm đôi mắt lại, hay tránh né và quay lưng với nó.

Đức Phật dạy: “Đây là khổ”, nghĩa là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn và trực diện với nó như trực diện với người yêu. Bởi lẽ trong mỗi chúng ta không bao giờ có cái yêu đơn thuần mà yêu là do liên hệ. Liên hệ giữa bên nầy và bên kia; liên hệ giữa người nầy và người kia; liên hệ giữa chủ thể và đối tượng; liên hệ giữa khát ái với âm thanh, sắc tướng, mùi vị và xúc chạm; liên hệ đến những khát khao, tìm kiếm và đuổi bắt, liên hệ với những ảnh tượng tồn đọng trong tâm thức đã biến thái để trở thành chủng tử nhân duyên không phải chỉ một đời, hai đời mà nhiều đời và sự liên hệ ấy không phải chỉ ở cõi nầy mà còn ở cõi kia; không phải chỉ ở thế giới nầy mà còn ngay cả ở thế giới của bên kia nữa.

Khi tình yêu trào dậy, ta mở to đôi mắt để trực diện với người yêu như thế nào, thì khi khổ đau trổi dậy trong ta, ta phải mở to đôi mắt để trực diện với những khổ đau trong ta, cũng đúng như thế ấy. Ta mở to đôi mắt thấy rõ khổ đau không phải là để sợ hãi, không phải là để tránh né mà để thương và để đùa chơi với nó, và giúp nó cùng ta sánh vai đi lên.

Ta hãy nhìn sâu vào sự hiện hữu của những nỗi khổ đau trong ta, để thấy rõ nó vốn không có tự tính, nó hiện hữu cũng cần phải có điều kiện, hễ có điều kiện thích hợp với nó thì nó phát sinh và tồn tại; nếu không có điều kiện thích hợp với nó thì tự nó ẩn diệt và tiêu vong. Khổ đau là vô thường như bất cứ sự vô thường nào của mọi sự hiện hữu, vì biết chắc như vậy nên ta nhìn nó để mỉm cười và thương yêu.

Ta hãy nhìn sâu vào những nỗi khổ đau ở trong ta, để ta có thể đồng cảm với những nỗi khổ đau của người khác, của đồng loại và ngay cả mọi loài mà đừng bao giờ có những lời nói, có những hành động hay có những ý nghĩ khiếm nhã đối với tất cả họ. Và ta mong rằng, trong thế giới con người đừng ai khiếm nhã với ai, và trong thế giới của muôn loài đừng có loài nào đối xử khiếm nhã với loài nào. Loài mạnh thì biết bảo vệ loài yếu, người giàu thì biết giúp đỡ người nghèo, người trí thì biết tìm đủ mọi cách để nâng đỡ kẻ ngu.

Bởi vậy, ta hãy mở to đôi mắt để nhìn sâu vào trong lòng của mọi sự khổ để biết một cách chắc chắn rằng, khổ đau là ở đây mà không phải ở nơi kia, biết vậy là ta đã có khả năng để đùa chơi với nó mà chẳng có chút gì là sợ hãi.

Đức Phật dạy: “Đây là tập”, tức là những tập khởi của khổ đau. Như vậy, đức Phật đã thấy, biết và nắm trọn vẹn tất cả sự huân tập và lưu hiện của những chủng tử khổ đau. Ngài muốn ta không phải chỉ nhìn những hình thái biểu hiện của khổ đau mà hãy mở to đôi mắt nhìn sâu, nhìn xuyên suốt vào trong lòng của những khổ đau, để thấy rõ và ôm lấy những hạt giống khổ đau đang huân tập và vận hành ở trong ta, để soi sáng, thương yêu và chuyển hóa. Nếu ta không mở to đôi mắt nhìn sâu vào trong lòng của khổ đau, thì làm sao ta có thể thấy rõ và ôm lấy những hạt giống khổ đau để soi sáng, thương yêu và chuyển hóa, và nếu ta không chuyển hóa được những hạt giống khổ đau trong lòng ta, thì làm sao ta có thể thoát ly được những tính chất và mọi hình thái biểu hiện của nó, và thử hỏi ta chạy đường nào cho thoát khỏi ?

Đức Phật dạy: Đây là tập khởi của những khổ đau, chứ không phải những tập khởi của khổ đau có từ nơi nào. Như vậy là Ngài muốn chỉ cho ta thấy rằng, tập khởi của những khổ đau, nếu có mặt thì chúng đang có mặt ở trong thân tâm nầy, chứ không phải ở nơi thân tâm nào khác. Nghĩa là ở nơi thân tâm nầy có vô minh, có tham ái, có sân hận, có si mê, thì ở nơi thân tâm nầy có những tập khởi của khổ đau, chứ không phải tập khởi của những khổ đau nằm ở nơi thân tâm nào khác.

Ta hãy nhìn sâu vào tập khởi của những khổ đau ở trong thân tâm ta, để ta ôm ấp, soi sáng và chuyển hóa. Ta có khổ đau, vì trong ta có vô minh. Ta có khổ đau, vì trong ta có tham dục. Ta có khổ đau, vì trong ta có những hạt giống giận hờn và trách móc. Ta có khổ đau và thất vọng, vì trong ta có những tri giác sai lầm về một bản ngã cố hữu ở nơi sắc thân, về một bản ngã cố hữu ở nơi mọi cảm giác, về một bản ngã cố hữu ở nơi tri giác, về một bản ngã cố hữu ở nơi những chủng tử tâm hành và về một bản ngã cố hữu ở tận chiều sâu của tâm thức. Và ta có khổ đau là do ta có những tri giác sai lầm về một bản ngã cố hữu ở nơi tự thân, ở nơi con người, ở nơi mọi chúng sanh và ở nơi mọi sinh mệnh. Ta có khổ đau và thất vọng, vì do vô minh và tri giác trong ta đã vẽ ra cho ta một cái ta hư ảo. Không những hư ảo trong hiện tại mà còn hư ảo ngay cả quá khứ và tương lai; không những vẽ ra sự hư ảo ở nơi thế giới nầy mà còn vẽ ra cho ta những sự hư ảo ở tận nơi thế giới bên kia. Ta khổ đau và thất vọng, vì tri giác sai lầm của ta đã tách ta ra khỏi thế giới hòa điệu nhất như tuyệt đối, để khiến ta đuổi bắt một bản ngã ở trong thế giới ảo tưởng, phù hư.

Ta hãy nhìn sâu vào những tập khởi của những khổ đau trong ta, để thấy rõ chúng vốn không có tự tính, chúng tập khởi cũng cần phải có những điều kiện thích ứng, nếu không có những điều kiện thì chúng cũng không thể nào huân tập và khởi hiện. Chúng là vô thường như bất cứ sự vô thường nào của mọi sự hiện hữu, vì biết chắc như vậy, nên ta ôm ấp nó để mỉm cười và chuyển hóa.

Ta không những chỉ nhìn sâu vào những tập khởi của khổ đau, mà còn nhìn sâu vào mọi hình thức huân tập và biểu hiện của chúng, cũng như những cá tính và bản chất của chúng để thay chốt. Ta thay chốt vô minh bằng tỉnh giác, tham ái bằng buông xả là tức khắc những tập khởi của mọi khổ đau đều được chuyển hóa.

Mỗi khi vô minh và tham ái trong tâm ta đã được thay chốt, thì vô biên phiền não trong ta cũng tùy theo đó mà được tảo trừ.

Vậy, đức Phật dạy: “Đây là tập” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt không phải chỉ để nhìn trực diện mà nhìn sâu, nhìn xuyên suốt mọi hình thái huân tập và biểu hiện của những chủng tử tạo nên khổ đau, cũng như những cá tính và bản chất của chúng, để ôm ấp, mỉm cười, đùa chơi và chuyển hóa.

Đức Phật dạy: “Đây là diệt” là Ngài muốn cho ta thấy rõ hạnh phúc và an lạc là ở đây, ở ngay nơi thân tâm nầy, ở ngay nơi hiện thế và ở ngay nơi cuộc đời nầy. Ở ngay nơi thân tâm ta vắng bặt hoàn toàn những tập khởi của khổ đau, thì hạnh phúc và an lạc đích thực có mặt. Hạnh phúc và sự an lạc đích thực không phải là mọi hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm bên ngoài hay những ảnh tượng tồn đọng trong tâm thức ta, mà ta phải biết đình chỉ những chủng tử vô minh và khát ái ở trong ta, vì chúng là tác nhân, khiến ta đang bị vướng mắc vào những cái đó. Ta hạnh phúc là ta sống giữa lục trần mà tâm ta không bị điều động bởi vô minh và không hề bị vướng mắc bởi tham ái.

Đức Phật dạy: “Đây là diệt” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy rõ, tập khởi của những khổ đau có mặt ở chỗ nào thì ta phải dập tắt chúng ở chỗ đó. Chủng tử khổ đau đã bị diệt tận, thì mọi hình thái khổ đau không còn biểu hiện, nên tự tính của diệt là vô sinh hay Niết-bàn.

Như vậy, đức Phật dạy: “Đây là diệt” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn sâu vào những tập khởi của khổ đau, để thấy rõ bản thể của chúng xưa nay vốn là tịch diệt, để ta mỉm cười và thong dong vui chơi trước muôn ngàn hiện tượng diệt sinh của vạn hữu.

Đức Phật dạy: “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để nhìn thấy đạo chính là đây, chính ngay ở nơi thân tâm này, chính ngay ở nơi mỗi phút giây của sự sống trong ta, quanh ta và chính ở ngay nơi cuộc đời này đây, chứ không phải ở bất cứ nơi nào xa lạ.

Chính ngay ở nơi mọi hình sắc, mọi cảm giác, mọi tri giác, mọi chủng tử tâm hành, và mọi nhận thức mà thấy đạo, thực nghiệm đạo và chứng nghiệm đạo và cũng chính từ đó mà giải thoát. Chính ngay ở nơi sáu quan năng của nhận thức, sáu đối tượng của nhận thức và ngay nơi sự biểu hiện của các nhận thức mà thấy đạo, thực nghiệm đạo, chứng nghiệm đạo và thành tựu đạo giải thoát. Nói rõ hơn là ngay ở trong lòng của những khổ đau, của những tập khởi của khổ đau mà thấy đạo, thực nghiệm đạo, chứng đạo và thành tựu đạo giải thoát.

Đức Phật dạy: “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy rõ “đạo” ngay trong lòng của các pháp duyên khởi, và cũng thấy rõ “diệt” ngay từ nơi các pháp duyên khởi ấy. Và Ngài nói “đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt nhìn sâu vào tâm ta, để thấy rõ ngay “đạo là Bồ-đề”. Tu đạo là hành Bồ-đề. Chứng đạo là chứng nhập Bồ-đề. Hành đạo là chuyển tải hạt giống trí tuệ và từ bi đi vào cuộc đời, nhằm tạo mọi cơ duyên để cho mọi người và mọi loài phát triển tâm Bồ-đề và chứng nhập tâm ấy một cách toàn vẹn.

Như vậy, đức Phật dạy “Đây là đạo” là Ngài muốn ta mở to đôi mắt để thấy, để biết khổ đau ở đâu thì những tập khởi của những khổ đau ở đó; khổ đau và những tập khởi của khổ đau ở đâu, thì đạo ở đó. Và đạo ở đâu thì chứng nghiệm tịch diệt và thể nhập Niết-bàn, hạnh phúc và an lạc ở đó.

Bởi vậy, bấy giờ tại Vườn Nai, đức Phật đã dạy cho năm anh em Kiều Trần Như rằng: Đây là khổ; đây là tập; đây là diệt; đây là đạo, là đã bao hàm trọn vẹn mọi ý nghĩa của cuộc sống con người và đã giải quyết mọi vấn đề của con người một cách tích cực để thăng hoa.

Do đó, thăng hay trầm, khổ đau hay hạnh phúc của cuộc sống con người, khi mà ta chưa biết rõ gốc rễ và ngọn ngành của nó, thì nó khiến cho ta có nhiều nỗi băn khoăn và kinh hãi, nhưng khi ta đã biết rõ mọi gốc rễ và ngọn ngành của chúng, thì những nỗi băn khoăn và kinh hãi ngày ấy, sẽ biến làm mây lành che mát và tưới tẩm trần gian. Những giận hờn và trách móc ngày hôm qua, nay đã trở thành nụ cười an lạc ngay trong từng phút giây của sự sống.

Vậy, ta xin chắp đôi tay búp sen an trú hoàn toàn trong chánh niệm để cám ơn đức Phật, cám ơn đời và cám ơn những nỗi khổ đau một cách sâu xa!

Thích Thái Hòa.
[Tập san Pháp Luân - số 7]

 

BLOG COMMENTS POWERED BY DISQUS

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.