Nén hương trầm

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Thắp một nén hương trầm, thầy ngồi yên tịnh trước bàn Phật cho đến khi trời tối hẳn.(LK)

 

Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc. Lúc này, cảnh núi rừng mới thật sự trở lại với vẻ hoang sơ thanh tịnh vốn có. Màu xanh thẩm của núi đồi trải dài đến ngút mắt, quyện với màu mây trời bàng bạc trên cao trông như tấm thảm nhung bọc lấy mọi cảnh vật nơi này khi đêm xuống.

Dọc theo triền dốc núi tọa lạc rất nhiều ngôi chùa lớn nhỏ, những ngôi Tịnh viện, Am thất làm bằng tre lá đơn sơ cũng nằm rải rác khuất sau mấy rặng cây rừng. Từ chân núi lên đến đỉnh phải vượt qua hơn ngàn bực thang cấp. Những bực thang này mới được xây dựng vài năm nay khi Hòa thượng về trụ trì ngôi tổ đình trên đó. Tổ đình cũng vừa sửa sang lại nên trông bề thế và khang trang hẳn lên, xung quanh có nhiều di tích mang đậm dấu ấn truyền thống Phật giáo lâu đời. Khách hành hương chủ yếu lên đây vãng cảnh, tham quan lễ lạy mấy ngôi bảo tháp của chư vị Tổ sư tu hành đắc đạo từ thuở xa xưa từng lưu tích lại. Hòa thượng chỉ về đây vào những ngày rằm, lễ lớn để giảng pháp đem theo một số Tăng Ni Phật tử rất đông đảo. Xe du lịch, xe đò đậu san sát dưới chân núi. Lúc này tụi con nít bán hàng rong, bán quà lưu niệm và cả bán nhang dạo như Hoàng thì tha hồ chạy theo chèo kéo nài nỉ khách mua cho được một vài bó hương nhỏ.

Hoàng chợt nghe có tiếng chuông vang lên từ một hang động bên kia… Tiếng chuông nhẹ như làn gió thoảng qua tai giữa cái nắng chiều bảng lảng đang khuất dần phía chân trời càng thôi thúc bước chân nó tiến tới. Dù quanh quẩn nơi ngọn núi này đã lâu nhưng Hoàng chưa bao giờ dám vào sâu. Nó nghe người ta nói có nhiều vị thầy chuyên tu thường đến ở trong các hang động đó. Một nơi vắng lặng như thế thì khách hành hương ít lui tới, họa hoằn lắm mới có người vì cảm cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hay thích tìm chút thư thái cho tâm hồn mới lạc bước vào. Đối với thằng Hoàng, việc nó thích đến những chốn không người này chỉ vì muốn tránh xa mọi sự huyên náo bẩn chật quen thuộc cứ tái hiện trước mắt hằng ngày. Trong thế giới trẻ thơ bươn chải như nó cũng lắm cảnh ẩu đả tranh giành lãnh địa khách hàng. Hoàng không muốn như vậy, nhưng cũng không thể làm gì khác hơn được.

Tần ngần đứng trước một cửa hang động, Hoàng vẫn chưa dám nhìn vào trong, mãi khi nghe giọng niệm Phật nho nhỏ hòa cùng tiếng chuông ngân rất khẻ thì nó mới mạnh dạn đi tới. Hơi e ngại vì cảnh tranh tối tranh sáng, Hoàng cố mở mắt to ra nhìn và thấy một vị Sư đắp y vàng đang ngồi niệm Phật chính giữa nhà. Phía trên cái kệ thấp có đặt bức tượng Phật nhỏ, mà sao không thấy có nhang đèn gì cả. Hoàng ngập ngừng nhìn nén nhang trầm còn lại đang cầm trên tay. Nén nhang này nó lấy vốn hơn mười mấy ngàn vẫn chưa bán hết. Nghĩ ngợi một chút Hoàng liền mở bao lấy ra một cây nhang rồi bật quẹt ga đốt lên như nó vẫn thường hay giúp khách khi họ hành hương cúng Phật. Hoàng bước tới thắp cây nhang lên bàn Phật và đặt luôn nén nhang bên cạnh đó. Xong nó trở lui ra ngồi phía sau, chắp tay nghiêm trang nhìn lên bàn Phật lúc này đang tỏa ra mùi hương trầm dìu dịu. Vị Sư tụng niệm rồi yên lặng tịnh tọa. Hoàng nhìn vị Sư với vẻ cảm kích sâu xa. Chắc người đã biết có kẻ đột nhập vào đây nhưng vẫn ngồi yên. Hoàng bắt chước tư thế của vị sư, song chỉ được một chút thì mắt nó đã lim dim, cơn buồn ngủ kéo đến. Chưa bao giờ Hoàng ngủ nhanh đến thế. Một giấc ngủ bình yên mộc mạc không bị vẩy đục bởi những toan tính vật vã đời thường.

Hoàng thức dậy khi nghe tiếng chim hót líu lo rộn rã ở ngoài hiên. Nó đưa mắt nhìn quanh, không thấy vị Sư đâu cả. Mùi hương trầm lan tỏa thật dễ chịu trong một không gian êm đềm lắng đọng. Đứng dậy vươn vai bước ra sân, Hoàng bắt gặp cảnh núi rừng vào buổi sáng thật tuyệt vời. Từng mảng sương mù vươn dài lên đỉnh núi, tạo nên một màu trời trong biếc mỏng như tơ ôm lấy cả vũ trụ mênh mông sâu thẩm. Trên mặt đất trải đầy những loài thảo mộc xanh tươi, hoa và cỏ mọc chen chúc bên những thân cây cổ thụ to lớn, giữa những đụn đá xanh rêu nhàn nhạt mà vẫn hài hòa trong thế giới muôn hình. Tiếng gió, tiếng chim và cả tiếng suối róc rách chảy xuyên qua kẻ núi dìu dặt như khúc nhạc rừng êm ái. Hoàng chưa từng nhìn thấy một buổi sáng yên tịnh và thuần túy thơ mộng như thế này, đơn giản chỉ vì nó theo chân những đoàn du khách đến đây khi nắng đã lên cao, cũng chẳng có tâm trí đâu mà ngắm cảnh trời mây non nước. Hoàng không ngờ mình đã trải qua đêm trong ngôi thạch động này, được đắp lên mình chiếc y vàng của vị Sư, mùi nhang trầm dường như được thắp suốt đêm. Không biết vị Sư có ngủ không khi nhường chiếc chiếu duy nhất cho nó nằm, và người đã đi đâu mất rồi. Thế nhưng bây giờ nó phải xuống núi. Hôm nay ngày rằm, sẽ có nhiều khách hành hương. Hoàng đi quanh mà vẫn không thấy vị Sư đâu cả. Ánh nắng đầu tiên đã lọt vào khe động. Núi rừng đang bước vào một ngày mới. Từng bước chân người rộn rã xuống lên. Có biết bao niềm tin và ước nguyện từng được khơi dậy ở giữa chốn tịch nhiên này.

Từ đó mỗi buổi chiều, Hoàng thường ghé vào tịnh thất của Sư, có khi nghỉ lại cả ban đêm. Những lúc vắng khách, nó có mặt ở đây luôn để phụ Sư chút công việc như quét tước nhổ cỏ xung quanh hang động, rồi xuống suối xách vài can nước lên. Sư hay để dành cho Hoàng phần cơm bánh mà Phật tử cúng dường hay trên tổ đình mang xuống cho. Ngày qua ngày, nó càng cảm mến đức độ của Sư và yêu thích không khí tĩnh lặng trang nghiêm của thạch động. Thích nhất là nghe Sư nói chuyện. Một thằng bé bán nhang vô gia cư, lại được Sư chuyện trò thân mật như thâm tình thầy trò. Người chỉ dạy tận tình cho nó về những điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Những câu chuỵên Phật Pháp, những bài kinh tụng vỡ lòng ít nhiều cũng giúp cho Hoàng có đôi chút nhận thức sâu xa ý vị.

Hằng đêm, Hoàng thích ngồi nhìn Sư tĩnh tọa dưới ngọn nến lung linh và khói hương trầm tỏa ngát. Màu vàng y người đắp cũng sáng rực lên một cách kỳ diệu. Những lúc này, Hoàng ngồi thật yên lặng phía sau, tư tưởng của nó chẳng khác nào như đóm lửa nhỏ nhoi được toát lên từ một niềm tin, từ lòng cảm khái và biết ơn. Rồi cũng như mọi lần, nó ngủ liền sau đó không lâu trong cảnh đêm tịch mịch của núi rừng. Thỉnh thoảng trong tiềm thức, nó còn nghe cả tiếng chuông ngân văng vẳng từ cõi xa xăm.

Một hôm, khi Hoàng mang đến một bó hương trầm khác đặt lên kệ Phật thì Sư bảo:

- Nhang trầm mắc lắm sao con không để bán, cúng nhang thường cũng được rồi. Vậy  để Sư gởi tiền lại nhé.

- Dạ thôi bạch Sư… cũng không bao nhiêu, để con cúng dường cho có phước. Miễn Sư cho con đến đây thường là được.

Vẻ mặt hiền từ của Sư thoáng chút đăm chiêu. Sư nhìn thằng bé giây lâu rồi cất tiếng nói:

- Tuần tới Sư xuống núi trở về chùa rồi. Chúng ta biết có còn nhân duyên gặp nhau nữa không?

Thằng Hoàng ngơ ngác, cất giọng run run:

- Vậy Sư không ở đây nữa à?

Sư lắc đầu nói khẻ:

- Sư thích khung cảnh ở đây nên xin Hòa thượng về tịnh tu ba tháng. Nay phải trở về chùa lo công việc, mấy chú tiểu lại sắp đi học. Nếu có dịp Sư cũng sẽ trở lại. Con ráng sống cho tốt, quý thầy trên tổ đình cũng thương con lắm.

Hoàng im lặng, lòng nó chùng xuống buồn bã mà chẳng biết phải nói gì đây. Sư chỉ lưu lại đây để tịnh tu ba tháng, còn nó mãi mãi là thằng bé bán nhang, dù ở giữa trời đất bao la nhưng lại chẳng có nơi chốn để đi về.

- Hoàng à! Sư gọi khi nó đang quay mặt ra sân với vẻ thẩn thờ - Sư và con đã có nhân duyên gặp gỡ ở đây. Thấy con hiền lành đôn hậu lại ưa thích học hỏi nên Sư cũng có ý định như vậy. Nếu con bằng lòng Sư sẽ mang con về chùa cho đi học cùng với mấy chú tiểu. Sau này trưởng thành con muốn tu hay làm việc gì cũng hơn là ở đây lăn lộn với nghề bán nhang. Sư cười thật hiền - con cứ suy nghĩ kỹ đi rồi cho Sư biết.

Những lời nói của Sư đã mở ra cho Hoàng biết bao là ước vọng. Nhưng nó vẫn chưa biết phải trả lời Sư như thế nào. Hoàng bước ra sân, đến ngồi dưới gốc cây tràm trầm ngâm nghĩ ngợi. Về với Sư, lại được đi học. Nó còn  mơ ước gì hơn nữa chứ. Về với Sư nghĩa là nó phải giã từ cảnh núi rừng bình yên này với lắm cảnh đẹp như tranh, với những ngôi chùa, những tòa Bảo tháp mà nó mỗi ngày tới lui nhìn ngắm. Trong cuộc sống hằng ngày, lòng nó đã từng dấy lên một nỗi niềm khao khát chờ đợi. Và bây giờ nhìn lại quãng đời trải qua cùng nhiều viễn cảnh sắp tới, Hoàng chợt reo lên nho nhỏ: “Một ngày nào đó khi  ánh dương tỏ rạng, biết đâu mình sẽ trở lại nơi này. Phải, biết đâu được. Cuộc đời luôn tiềm ẩn  bao điều kỳ diệu đến không ngờ…”



Thời gian cứ thế trôi đi, ngôi chùa hoang dưới chân núi gần năm nay đã có vị Sư trẻ về trụ trì. Đất bên hông chùa còn một khoảnh rộng, vị Sư cho xây cất thêm mấy dãy nhà ngang dọc lớn nhỏ. Có ai hỏi thì Sư nói:

- À! Tôi định mở một lớp học tình thương giúp trẻ con nghèo ở đây được đến lớp học hành ấy mà. Lại có cả khu nhà Mở để các em bé, những người buôn bán dạo không nhà cửa khi đêm về có nơi trú ẩn.

Mọi người có vẻ thắc mắc lắm, nhưng họ chẳng biết gì về vị Sư mới đến này. Chỉ có quý thầy lớn ở đây thì biết rõ về chú bé bán nhang dạo của hai mươi năm về trước. Chú bé thường len lén đứng ngoài hiên nghe Hòa thượng thuyết pháp. Sau đó, nó theo vị Sư trở về chùa miền xuôi. Chú bé được vị Sư nuôi ăn học, rồi chú xuất gia, được thầy gởi đi học các nơi, lại đi ra cả nước ngoài để học nữa. Khi du học về, ước nguyện của vị Sư trẻ là được trở lại nơi này. Thầy muốn làm một điều gì đó để trả ơn cuộc đời, trả ơn cho một nhân duyên kỳ ngộ của những ngày xa xưa ấy. Mấy năm trước, khi Sư phụ viên tịch, thầy giao chùa lại cho quý sư huynh sư đệ, rồi thu xếp một mình lên đây với nhiều dự tính trong lòng. Thầy vẫn  nghĩ ngọn núi này chính là nơi phát tích cho sự nghiệp tu hành của mình. Bao năm rồi lòng thầy cứ hướng về chốn cũ, nơi có những mảnh đời mà Thầy từng trải qua. Những cuộc đời cần được ai đó nâng đỡ, dìu dắt để được tiến xa hơn trong cuộc sống, để được trở về với bổn tánh thuần chơn muôn thuở.

Chiều chiều, vị Sư thường thả bộ lên ngôi thạch thất nằm bên lưng sườn núi. Thắp một nén hương trầm, thầy ngồi yên tịnh trước bàn Phật cho đến khi trời tối hẳn. Thầy đang tưởng nhớ đến vị ân sư khả kính của mình. Người đã sống trọn đời cho đạo pháp. Người đã đem ánh đuốc từ bi soi sáng cho muôn loài. Nơi đây, thằng bé bán nhang đã đặt một nén hương cúng dường đầu tiên. Mùi hương trầm ngày ấy đã theo dòng chuyển biến của thời gian mà lòng thầy vẫn thấy nó thơm ngát quyện tỏa đến tận bây giờ. Cảnh núi rừng vẫn thiêng liêng kỳ vĩ, và lòng người trở về… cũng đang trải rộng ân tình ngay trong  biển đời sinh diệt mênh mông.

Lam Khê.
[Tập san Pháp Luân - số 11, tr.62, 2005]