Vị trí nữ giới trong Phật giáo - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times


Có thể nói, nữ giới trong những xã hội Phật giáo đã tốt hơn những xã hội phi Phật giáo ở châu Á. Chúng ta có thể thấy ngay địa vị nữ giới tại các nước như Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện và Tây Tạng, ở thời điểm trước khi bị ảnh hưởng Tây phương.

Ông Hugh Boyd - Đại diện ngoại giao cho chính phủ Kandyan khoảng năm 1782 đã nhận xét trong bài viết của ông: “Người phụ nữ Sri Lanka rất khác biệt so với tất cả phái nữ ở những nước Á châu, nhất là về phần cá tính rất đặc biệt và nổi bật. Họ không mang vẻ lãnh đạm thờ ơ lười biếng, hay một sự khiêm tốn tẻ nhạt, hay chanh chua khó tính như hầu hết mọi phụ nữ những sắc dân Á châu khác đều có. Bao giờ cũng vậy, từ bao nhiêu thế hệ, những người phụ nữ tại quần đảo Sri Lanka  đều mang một sắc thái nhanh nhẹn lanh lợi, với một tí e thẹn quyến rũ, và sự thanh thản thân tình; những đặc điểm này tương tựa như phần đông phụ nữ Tây Âu. Người phụ nữ  Sri Lanka thường không bị xem như là nô lệ hay tình nhân; họ được trọng vọng và xem như một người bạn đồng hành cho người chồng của họ. Cho dù đàn ông nước này theo pháp luật, có quyền hạn độc đoán chuyên chế đối với con gái của họ, nhưng thực tế họ có phần dễ dãi trong sự giao lưu và cuộc sống gia đình. Chế độ đa thê hầu như vắng mặt, và ly dị được chấp nhận rộng rãi nên các ông không mang tính độc tài ghen tuông cố hữu; từ đó sinh sôi nẩy nở hiện tượng chuyên quyền một cách thái quá và thiếu phong nhã lịch sự đối với phái yếu mà ta thường thấy ở hầu hết các nước châu Á; thái độ này còn được thừa nhận là thích đáng và cần thiết bởi nhiều tôn giáo Đông phương. Người đàn ông Sri Lanka không bao giờ giam cầm hay kiềm chế vợ con họ, họ cũng không bắt buộc phụ nữ phải cam chịu những che đậy hay giam cầm ẩn náu một cách nhục nhã”.

Đoạn văn trên chỉ là một trong những lời bình luận của người Âu châu nhận xét về phụ nữ nước Sri Lanka vào khoảng thế kỷ thứ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX. Họ là những đại diện ngoại giao, nhà truyền giáo, người quản lý, lính tráng, bác sĩ, thiện nguyện viên, thủy thủ, v.v… Họ là những người biết nhiều về phụ nữ Âu Tây, và nhiều người cũng đã từng đi ngang qua hoặc đã sống ở Ấn Độ nên cũng biết khá nhiều về văn hóa và tập tục của Ấn Độ giáo và Hồi giáo.

Cho nên, những nhận xét của họ rất có giá trị. Những lời phê bình chung chung của hầu hết những người đã từng du hành khắp nơi, về phụ nữ Sri Lanka làm cho chúng tôi phải hiếu kỳ muốn tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này. Những sưu tầm sau đây sẽ bàn luận và nhận xét về cuộc sống xã hội khoảng thời gian giữa thế kỷ XIX. Trước đó, nguồn tài liệu hơi mập mờ nên không nhận ra được những đổi thay lớn lao trong xã hội. Và sau đó vì ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc thống trị của người Tây phương, qua thương nghiệp và kinh doanh, cùng với những hoạt động truyền giáo của Cơ đốc, nên những đổi thay vừa chớm nở là đã nhận biết được liền. Chỉ có những bài viết của người Âu là đầy đủ nhận xét tỉ mỉ chi tiết về những điều kiện sống trong xã hội xảy ra thường xuyên trên quần đảo. Văn chương của dân bản xứ phần đông là sách tôn giáo, không mang nhiều nhận xét về những sự việc trần tục như lời bàn về phụ nữ. Nhưng chứng cớ hiển nhiên rành rành trong cuộc sống đã nói lên được thái độ tự do hào phóng đối với phái nữ ở tại nước Sri Lanka, một sự kiện sẵn có từ nhiều đời. Khi nhắc đến người phụ nữ ở các nước Á châu, phần đông ta thấy được hình ảnh một người phụ nữ trùm kín mặt của Hồi giáo, hay khuê phòng nơi những phụ nữ đẹp và giàu sang của Ấn Độ thường ẩn náu, hoặc hậu cung của những triều đại Trung Hoa nơi mà cả ngàn nàng hầu của vua được canh giữ bởi hoạn quan, hay các vũ nữ của thần linh đã hy sinh thân mạng vì đạo giáo… tất cả đều biểu hiện sự lợi dụng bóc lột người nữ ở các nước phương Đông. Rất ít người biết đến những xã hội hiếm hoi, những quốc gia nhỏ bé ngay tại vùng đất Á châu, trong đó nữ giới được trọng vọng, nếu so sánh với tiêu chuẩn hiện đại thời nay. Thái Lan và Miến Điện cũng nằm trong những chế độ này. Phần lớn, chúng tôi căn cứ kết luận về vị trí của phái nữ ở hai nước này bằng cách đối chiếu văn bản thu thập được từ những khách du hành Âu châu thăm viếng và sinh sống ở những xứ sở này vào thế kỷ thứ XIX và XX.

Ông R. Grant Brown, một Sĩ quan ngành lợi tức thu nhập sống tại Miến Điện 28 năm (1889-1917) đã nhận xét như sau: “Tất cả mọi người đều viết về  mức độ tự do, thật là đặc biệt dành cho người nữ khi bàn luận về nước Miến Điện. Vị trí của phụ nữ trong xã hội này thật là một điều quá đỗi ngạc nhiên khi xét rằng ở các nước lân cận chung quanh như Ấn Độ hay Trung Hoa, đàn bà con gái thường bị “nhốt”, bị lệ thuộc, hay bị tách biệt khuất lánh nơi riêng lẻ.”

Một sứ giả tại triều đình nước Miến Điện cũng bày tỏ sự ngạc nhiên trước thái độ tự do của hàng vua chúa trong cung điện: “Hoàng hậu ngồi ngang hàng với vua khi tiếp chuyện với đại sứ nước ngoài. Cả hai được giới thiệu là “hai vị chúa tể tối cao”. Vì đối với người Miến Điện, theo thường lệ, phụ nữ gần như là bình đẳng với phái khỏe mạnh cường tráng nam giới hơn bất cứ xã hội nào vùng châu Á”.

Thiếu tướng Albert Fytche, đại biểu chính quyền Anh quốc ở Miến Điện và cũng là Sĩ quan phụ tá cho Thống đốc Ấn Độ, cũng viết tương tự như thế vào năm 1878: “Không như những người Ấn Độ giáo hay Hồi giáo rất hay nghi kỵ và ngờ vực, người phụ nữ ở đây (Miến Điện) phần nhiều được thoải mái tự do. Họ không chỉ là những nô lệ tình yêu cho người chồng, mà còn được thừa nhận và tôn trọng quyền bình đẳng  và thế đứng của họ đôi khi trội hơn trong hầu hết những giao dịch hằng ngày của cuộc sống. Vị trí của họ chắc hẳn cao hơn  bất cứ ai dù  ở phương Tây hay Đông”.

Chỉ cần một chút quan sát và thẩm vấn cũng đủ để nhận thấy, tại Thái Lan cũng thế, cho dù kém hơn, nhưng người phụ nữ Thái Lan cũng được hưởng sự tự do đáng kể. Thí dụ như trong bài viết của ông J.G.D. Campbell, một cố vấn ngành Giáo dục cho Chính phủ Thái, năm 1902 cũng nhắc đến: “Trong quốc gia Thái Lan, không biết vì nguyên do gì, mà vị trí của người phụ nữ  vẫn có phần tốt đẹp hơn ở những nước Á châu khác. Chỉ cần đến Bangkok một vài ngày thôi, người ta không khỏi ngạc nhiên nhận ra ngay phong độ và dáng vẻ hiên ngang của người phụ nữ  bình dân trong xã hội. Có thể nói rằng đạo Phật mang đến ảnh hưởng tích cực này cho phái yếu về cả mặt tôn giáo và nhân cách phẩm hạnh.”

Cũng vậy, Công Tước Charles Bell, đại diện Hoàng gia Anh tại Tây Tạng, Bhutan, và Sikkim, cũng đã nêu vấn đề này năm 1928: “Khi khách du hành đến Tây Tạng ngang qua trấn ải những nước láng giềng như Ấn Độ hay Trung Quốc, điều đầu tiên họ sẽ ngỡ ngàng nhận ra cái khác biệt của người nữ ở Tây Tạng. Họ không bị kềm chế trong ràng buộc và tách biệt như phụ nữ Ấn Độ. Trái lại họ rất thoải mái trong các sinh hoạt với người khác phái, vì họ đã quen với lối sống không phải khép nép, e thẹn, lo sợ. Họ không  khác so với những phụ nữ các nước tân tiến trên thế giới.” Ông Bell lại bàn tiếp: “Cũng vậy, ta có thể nói một cách chắc chắn rằng những quốc gia hoàn toàn theo đạo Phật như Miến Điện, Sri Lanka và Tây Tạng, người phụ nữ có một vị trí rất khác biệt, rất bình đẳng”.

Những lời bình luận về sự tự do bình đẳng của phái nữ trong những quốc gia phần nhiều cô lập, cách biệt riêng lẻ tại Á châu, nhất là trong thời tiền công nghiệp, thật là một điều đáng sửng sốt. Không phải nữ giới nắm quyền hành ngang hàng với người nam tại những nước như Sri Lanka, Miến Điện và Thái Lan, cả về phần lý thuyết cũng như thực hành. Nhưng họ được ưu đãi đặc biệt, so với các nước láng giềng như Ấn Độ hay Trung Quốc, nơi mà những giáo điều của Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Khổng giáo thật sự thống trị đã lâu đời. Quan điểm này có thể xảy ra mâu thuẫn vì Thái Lan và Miến Điện được tổng hợp của hai nền văn minh ngôn ngữ hệ Ấn - Âu và âm thanh. Cũng vậy tại Sri Lanka bị ảnh hưởng của đạo Hindu khá trầm trọng. Vấn đề này xuất hiện như là một tình huống liên quan đến phụ nữ trong ba xã hội khác nhau từ nền văn hoá chính của châu Á, chỉ có thể suy diễn và giải thích bằng sự nhìn nhận là cả ba quốc gia cùng mang sắc thái và điểm đặc trưng duy nhất rất giống nhau là đạo Phật phát triển hùng mạnh tại những quốc gia nhỏ bé này. Như vậy, ta có thể kết luận rằng nhờ đạo Phật mà người phụ nữ tại Sri Lanka, Miến Điện và Thái Lan có một vị trí thích đáng về bình quyền trong xã hội.

Kết luận này đưa chúng ta trở lại vấn đề quan điểm của đạo Phật đối với nữ giới và tại sao thái độ này khác biệt với những tôn giáo khác. Khi nhìn lại nước Ấn Độ cổ đại, quyển Rigveda, một tác phẩm văn học Ấn - Âu lâu đời nhất còn lưu trữ được, đã đề cập rất rõ ràng là phụ nữ có một thế đứng rất vững chãi và vinh dự trong xã hội Ấn thời đó. Trong tác phẩm văn học này, tác giả một vài bài thơ văn tán tụng cũng là phái nữ. Người nữ được quyền tham gia tất cả nghi thức tôn giáo và được tìm hiểu học hỏi mọi kiến thức cao cấp nhất. Trong gia đạo, cũng không có chứng cớ là phụ nữ bị hạn chế chèn ép hay kìm giữ, và không có chuyện cưới hỏi lúc còn vị thành niên. Nói chung, Rigveda phác họa một nữ giới rất được trọng vọng trong xã hội cổ xưa ở Ấn Độ. Chỉ sau này khi giai cấp Bà-la-môn bắt đầu chế ngự và thống trị xã hội, tôn giáo bắt đầu mất đi tính thanh thoát và trở thành đa nghi thức với lễ bái; từ đó người ta nhận thấy có sự suy đồi thay đổi về vị trí dành cho phụ nữ. Thần Manu, một trong những Bà-la-môn khắt khe tàn nhẫn nhất, ban hành quyển Những Điều Luật có thể nói là đã tước đoạt hết mọi quyền hạn và đặc ân của phái nữ. Khi điều luật này ra đời, nữ giới không còn tôn giáo, không được tin tưởng, không có đời sống tâm linh. Manu cấm hẳn “người của đẳng cấp su-dra, nô lệ, và phụ nữ” không được nhìn đến, huống hồ là đọc kinh thánh Vệ-đà. Một người nữ không được “về trời” do thực hiện điều lành theo cá nhân. Một người nữ không có quyền cúng tế hay thờ tự một mình. Một người nữ chỉ cầu giải thoát qua một đời phục tùng chồng một cách triệt để; nếu ông chồng trác táng hư hỏng, người vợ cũng bị đọa theo. Đã triệt loại hết mọi hình thức tâm linh, trí năng và hiểu biết của người phụ nữ. Manu còn đổ mọi trách nhiệm và tội lỗi lên họ, cho rằng người nữ là tồi bại, xấu ác, tội lỗi. Manu dẫn chứng: “Chúng nó không biết tủi nhục hổ thẹn, không đoan trang chính trực, không lương thiện chân thật, và không biết bẽn lẽn, e dè. Đó là lý do tại sao chúng nó mất đi trinh tiết và chỉ mong cầu được chinh phục bởi đàn ông.” Bởi vậy nên người phụ nữ Hindu lúc nào cũng cần được canh giữ cẩn thận; một cách dễ dàng nhất là làm sao bắt họ luôn trong tư thế sanh nở nuôi nấng con cái và lo cho gia đình để không còn thời gian sinh khởi ý đồ phiền toái. Nhưng cho dù với sự phỉ báng tối đa này, người Ấn Độ vẫn mong lý tưởng hóa một gương phụ nữ hoàn hảo, và một người mẹ thần tượng. Lý thuyết là vậy, thực tế Những Điều Luật của Thần Manu cũng ảnh hưởng nặng nề về cách cư xử với phái nữ trong mọi đẳng cấp, nhất là giới phong lưu cao cấp Ấn Độ.

Chính những nhận xét như thế đòi hỏi ta phải chú trọng đến ảnh hưởng của đạo Phật đã tác động mạnh mẽ vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên khi Phật còn tại thế. Nhưng chúng ta không thể cho rằng đức Phật đã đưa ra kế hoạch vận động dân chủ và bình quyền cho phái nữ ở Ấn Độ. Mà thật ra lời giáo huấn của Ngài đã tạo ít nhiều những làn sóng chống đối lại giáo điều và sự cuồng tín của Bà-la-môn. Đức Phật lên án chế độ đẳng cấp đương thời của người Bà-la-môn, cùng với quá nhiều lễ nghi và cúng tế thần linh. Ngài bác bỏ sự hiện hữu của một Giáo chủ duy nhất và nhấn mạnh về lời dạy của Ngài là mọi người đều có thể đạt tới giải thoát theo sự cố gắng hành trì của chính bản thân mình. Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật – ai cũng có thể chứng quả giải thoát - vì mọi chúng sanh đều có Phật tính như nhau, đây là lời dạy hoàn toàn đi ngược lại với uy thế tối cao của đàn ông. Phải là một người rất can đảm và đầy đủ nghị lực mới dám tuyên bố và đưa người phụ nữ lên ngang hàng với phái nam trong thời điểm đó. Vì thấy được khả năng tâm linh của người nữ cũng không thua kém so với người nam, nên đức Phật đã tạo dựng một Ni đoàn đông đảo sau một thời gian dài lưỡng lự và đây là một tổ chức tập thể người nữ đầu tiên thời bấy giờ. Tứ chúng của Phật giáo gồm có Tỳ-kheo (Bhikkhu), Tỳ-kheo ni (Bhikkhuni), Ưu-bà-tắc (laymen), và Ưu-bà-di (laywomen); như thế người nữ không bị loại ra ngoài vòng hoạt động tâm linh hay tôn giáo nào cả. Nếu người nam chứng đắc quả vị Vô thượng, thì người nữ cũng có thể đạt được điều đó bằng chính công phu tu tập của họ, mà không cần phải có sự giúp sức của phái nam. Như thế, chúng ta có thể khẳng định và đồng ý với nhận xét của tác giả I.B. Horner là Phật giáo đã đưa nữ giới lên mức độ xấp xỉ bình đẳng với nam giới.

Rời phần triết lý để đi vào cuộc sống thường nhật trong gia đình, người ta nhận thấy có ít nhiều những đổi thay về ý tưởng bình quyền. Trong những xã hội chế độ phụ hệ, gia đình nào cũng mong ước sanh được con trai để nối dõi tông đường; ngoài ra trong Ấn giáo, chỉ có người con trai mới có quyền chôn cất cha để ông đạt được trọn vẹn hạnh phúc ở thế giới bên kia. Vì lẽ này nên trong đạo Hindu, nếu người vợ không sanh con trai, người chồng  có thể ngang nhiên lấy vợ hai, vợ ba, và bà cũng có thể bị đuổi hẳn ra khỏi nhà. Có câu châm ngôn: “Qua một đứa con trai, ông có thể chiến thắng vinh quang, và qua đứa con trai của con trai ông, ông có quyền trường sanh bất tử.” Cho nên khi người đàn bà sanh ra một đứa bé gái, mọi người trong gia đình than khóc. Nhưng trong đạo Phật, hạnh phúc vĩnh cửu không lệ thuộc vào sự cúng kiếng khi chôn cất mà là do công đức tạo được trong cả đời của người đó trước khi chết. Lễ nghi chôn cất trong đạo Phật rất đơn giản, và do chính người quả phụ hay đứa con nào đó trai hay gái đều có thể thực hiện, không bắt buộc phải là người con trai trong gia đình.

Đạo Phật không có nghi thức hay lễ lạy ăn mừng một bé trai chào đời, nhưng cũng không phải là một chuyện đau buồn cho gia đình khi sanh con gái. Chuyện kể khi Vua Ba-tư-nặc đến than vãn với Phật là Hoàng hậu Mạt-lị vừa hạ sanh một công chúa, Phật liền trấn an vua: “Này Hoàng đế, sanh một đứa con gái nhiều khi còn quý phái hơn sanh con trai…”, đây là một phát biểu rất chính đáng thời bấy giờ. Cho dù Phật dạy nam nữ bình đẳng trong phẩm chất tâm linh, và tự mình phải tìm cầu giải thoát chứ không phải có con trai mới đảm bảo được hạnh phúc miên viễn; thế nhưng, chính những xã hội chủ yếu theo đạo Phật, người ta vẫn khát vọng có con trai, ngay cả ngày nay, chỉ vì tư tưởng quá thâm căn cố vị về sự trịch thượng cao tột của phái nam.

Việc cưới hỏi và cuộc sống gia đình thường là những thể chế cơ bản của mọi xã hội, cho dù là xã hội thời xa xưa hay thời hiện đại. Và vị trí của phụ nữ trong xã hội sẽ ảnh hưởng và được nhận định rõ ràng trong những thể chế này. Những câu hỏi như: người nữ có quyền hành trong việc giải tỏa hôn nhân như chồng họ không? Họ có quyền tìm ý trung nhân khác sau đó hay chỉ có đàn ông mới được lấy vợ lần thứ hai thứ ba? Câu trả lời cho những câu hỏi trên sẽ là nền tảng ấn định vị trí của phái nữ trong bất cứ một xã hội nào. Bây giờ chúng ta sẽ đi vào vấn đề xem xét quan niệm của Phật giáo về những câu hỏi này.

Không như những tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo, Phật giáo không xem hôn nhân là một sự thề nguyện thiêng liêng tôn giáo. Hôn nhân chỉ là một liên kết hoàn toàn mang tính cách thế tục, tăng ni không phải có mặt để làm chứng hoặc ban phép. Ở các nước như Sri Lanka, Thái Lan và Miến Điện, đám cưới thường có rất nhiều nghi thức rườm rà rượu tiệc ăn mừng kéo dài cả ngày đêm, nhưng những nghi thức này không mang tính cách tôn giáo. Đôi lúc tăng ni được thỉnh mời đến tham dự cúng dường trai tăng, nhân dịp đó quý ngài cũng chúc phúc cho đôi vợ chồng và gia đình họ. Ngay trong kinh điển, Phật chỉ nhắc đến bổn phận của chồng vợ đối với nhau trong kinh Thi-ca-la-việt (Sigalovada Sutra) chứ không chỉ dạy hay  chú trọng nghi thức, nghi lễ về hôn nhân hay việc thực hiện lời thệ nguyện cưới hỏi.

Phật dạy: “Có năm điều mà người vợ đoan chính phải được chồng lo lắng chăm sóc chu đáo bằng sự tôn trọng quý mến, bằng lịch sự nhã nhặn, bằng lòng chung thủy, bằng cách san sẻ ủy quyền cho nàng, và luôn mang quà cáp biếu tặng vợ. Và người vợ cũng có năm trách nhiệm đối với chồng là yêu thương quý mến chồng, lo liệu cho cả gia đình đôi bên với tất cả lòng mến mộ, thủy chung với chồng, dành dụm cất giữ đồ vật tiền tài chồng làm ra, và quán xuyến mọi việc trong ngoài một cách hữu hiệu”.

Một điều quan trọng cần được nhấn mạnh ở đây là lời giáo huấn của Phật ứng dụng cho cả đôi bên; hôn nhân là một quan hệ tương đồng cả về trách nhiệm lẫn quyền hành giữa hai người trong cuộc. Lời huấn thị này là một sự đổi hướng trọng yếu đối với tập quán và suy nghĩ thịnh hành của thời bấy giờ. Thí dụ như trong kinh Thần Manu có dạy: “Con cái - kết quả của hạnh phúc và là niềm vui vô bờ bến cho bản thân và gia đình tổ tiên nòi giống – hoàn toàn phụ thuộc vào người vợ”. Trong khi đó, Khổng Tử – người được xem như đàn anh đồng thời với Phật – cũng dạy tương tự như vậy: “… khi sự tôn kính phục tùng của người vợ thật hoàn hảo, nội tâm nàng được hài hòa cân đối, bấy giờ sự tồn tại dài lâu của gia đình mới được định đoạt”. Khổng Tử cũng chỉ dạy cặn kẽ về trách nhiệm của con cái với cha mẹ, bổn phận của vợ đối với chồng, của con dâu đối với mẹ chồng, nhưng không chỉ dạy điều ngược lại; cho nên người vợ chỉ có bổn phận và nhiệm vụ, trong khi ông chồng thì được hưởng quyền lợi và ân sủng. Trong kinh Thi-ca-la-việt (Sigalovada Sutra), lời giáo huấn của Phật về cách cư xử trong gia đình họ hàng đều là những mối quan hệ có qua có lại giữa những đối tượng, như vợ với chồng, con cái với cha mẹ, ngay cả chủ nhân với tôi tớ. Như vậy theo lý tưởng Phật giáo, hôn nhân chỉ là một sự khế ước giữa hai người bình đẳng với nhau. (còn tiếp)

Viên Minh dịch
[Tập san Pháp Luân - số 74, tr77, 2010]