Ánh sáng từ âm thanh (hay ẩn ý của mật chú)

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Trong những hình ảnh cũ, tôi còn nhớ buổi đi học lần đầu. Hình như hôm đó vào buổi sáng, cha tôi dắt tôi đi bộ ra đường cái, được một quãng là đến khu đất ruộng, rẽ vào một trong những con đường đất chia các mảnh ruộng ra từng ô vuông, đi một chút nữa đã đến nhà bác Nghĩa (tôi vẫn còn nhớ tên bác).

Tôi sống ở miền Nam khi vừa lớn. Một bữa trưa chợt nghe giọng hò ru em da diết. Gió mùa thu ơ mẹ ru mà con ngủ ớ...  Năm canh dài à... nắm canh dài thức đủ ư dzừa năm ơ hỡi chàng là chàng ơi... Lúc đó tôi đã quen với cách phát âm nhừa nhựa từ âm “v” thành âm “d” của người miền Nam. Âm “dzừa” (vừa) của bài hò ru em phổ biến này nghe dzừa man mác tâm sự người vợ trẻ nhớ chồng, “dzừa” ngọt ngào và nũng nịu. Còn chữ “năm canh” thứ hai, do âm điệu của lời ru, nghe như “nắm”: năm canh dài à / nắm canh dài.

Ai cũng biết nghe nhạc, nhưng thưởng thức đến đâu thì tùy tâm cơ và sự rèn luyện. Theo hiểu biết thông thường thì âm nhạc gồm chuỗi âm thanh nối nhau bằng âm luật. Ngắt một âm ra khỏi một làn điệu để phân tích hay bàn thảo thì chúng ta không còn nghe nữa mà là thấy nhạc. Cảm nhận khi nghe không còn nữa vì đã dùng lý trí để phán đoán hay thưởng thức đối tượng của sự nghe. Không những hết sướng mà làm như vậy cũng giống như mình bắt chước một em chăn trâu nằm phè ra giữa đồng, ngơ ngáo nghe mục đồng thổi sáo vu vơ.

Cho nên không nên ngắt một dòng hay một yếu tố ra khỏi tổng thể nếu mình muốn nắm cái thần của đối tượng mà mình đang thưởng thức.

Có một lần tôi nghe một người kia thuyết trình về Truyện Kiều trước đám đông. Anh ta chi li tỉ mỉ, và để chứng tỏ khả năng chẻ tóc, người kia cố chứng minh rằng Thúy Vân là người mù bằng trích dẫn mấy câu mô tả hai chị em Kiều và Vân. Thật là mất công và tội nghiệp cho cả anh ta lẫn người (bị) nghe. Mình thích Truyện Kiều đâu phải vì cô Vân mắt mù hay mắt đẹp, mà vì tổng thể các vần điệu và các hình ảnh dâng lên qua những vần lục bát.

Trong hò ru con, mình nghe “năm canh” thành “nắm canh”. Nếu cứ chì chiết “nắm” là vì nọ vì kia thì thật là hỏng. Mình nghe là “nắm” bởi vì nó nằm trọn trong cả làn điệu ru, vì vậy “năm” hay “nắm” cũng không sao đâu, mình vẫn rung động trong sự da diết giữa một trưa nóng ở miệt vườn. Buổi trưa, không gian vườn, và lời ru ơi ả. Ba thứ ấy gom lại làm người nghe cảm thấy ngùi ngùi.

Trong bài Ánh sáng từ Âm thanh trước có nói đến sự cảm nhận khi nghe mật chú. Thường khi chúng ta nói về điều gì nằm ngoài phạm vi ngũ quan, cảm nhận hay cảm thấy chẳng hạn, thì mức độ thuyết phục cũng ít. Có lẽ vào thời chưa có ngành khoa học tự nhiên, con người dễ cảm nhận với thiên nhiên hơn, có trực giác mạnh hơn. Khoa học và văn minh vật chất hôm nay khiến người ta muốn thấy (chứ không cảm) hoặc phải chứng minh một vấn đề nào đó, một việc gì đó là phải đo lường được thì mới đáng tin, có khi kể cả tình yêu đôi lứa, yêu nhau thì valentine cũng phải có một cái gì, ở với nhau đã dăm bảy năm mà không thấy mua một cái nhà kha khá thì khó chứng minh là hai đứa cảm nhau.

Các thí nghiệm của bác sĩ Jenny về tác dụng của sự rung và âm thanh trả lời được nhu cầu tâm lý của trí thức là cần sự chứng minh, khoa học và thực dụng nói chung. Nhưng ông không muốn dừng lại ở đó. Ông muốn người ta phải biết cảm nghiệm. Cái mà ông hy vọng là người đọc phải trưng dụng trực giác để cảm nghiệm những khám phá đã được chứng minh của ông. Có một thuyết gần với quan điểm này, thuyết Hệ thống (System Theory). Trên con đường đi tìm một cái nhìn tổng thể, thuyết Hệ thống nối khoa học với nghệ thuật, nó giải thích hiện tượng một cách vừa khách quan vừa trực giác. Nguyên lý căn bản của thuyết Hệ thống là tổng thể luôn quan trọng hơn tổng số. Bốn chân, thân, đuôi, đầu, vòi và cặp ngà có thể tạm coi là tổng số bộ phận thấy được của một con voi, nhưng nó là tổng số cứng ngắc, nó chỉ hết vô tri khi tổng số bộ phận của con voi kết hợp và cử động hài hòa. Rồi dùng trực cảm đồng thời dùng mắt để đặt toàn thể con voi trong môi trường chung quanh sẽ thấy hình dáng voi lóng lánh linh hồn hơn.

Albert Einstein nói không thể tách không gian ra khỏi thời gian. Vậy thì có chiều thứ ba là không gian thì ắt cũng có chiều thứ tư là thời gian. Tần số âm thanh là biểu hiện của thời gian. Khi tần số tăng, hay nhanh lên, thì khoảng cách của hai điểm sẽ ngắn lại. Thí dụ khoảng cách là một con sông, khi ta đọc nhanh, hay phát một âm thanh từ bên này bờ thì, nếu đọc, nói hay tụng nhanh, thời gian âm thanh qua tới bờ bên kia sẽ nhanh hơn là đọc hay nói chậm.

Điều này là hiểu biết thông thường không cần chứng minh. Khoa vật lý đã chứng minh là vật chất hay hạt vật chất đều tích trữ năng lượng. Mỗi một hạt đều tiềm ẩn năng lượng nguyên tử. Tiềm ẩn thôi, vấn đề là làm sao để đột kích làm cho hạt phát ra năng lượng. Vật chất là một chuỗi các năng lượng liên kết theo một qui luật nào đó. Chính sự liên kết này khiến các hạt tạo nên năng lượng. Hạt có năng lượng vì nó liên kết với hạt. Đứng một mình thì hạt chỉ là tiềm năng. Nó trở thành người lữ hành cô đơn.

Âm thanh cũng vậy. Dù phát âm một chuỗi âm thanh nhưng phát ra rời rạc thì chuỗi âm thanh đó chỉ là tổng số từng đơn âm rời. Là vì theo luật nối âm (sandhi), “biên giới” của hai âm gần nhau nếu đập vào nhau nhanh ở một mức nào đó thì sẽ thành một âm thứ ba. Để dễ mường tượng thì sự biến âm này na ná như khi mình đọc phụ âm cuối của một chữ tiếng Anh nối qua nguyên âm đầu của chữ kế tiếp, mà phải đọc nhanh thì mới ra âm nối, đọc tà tà từng chữ một thì âm phát ra cũng rời từng chữ một, không gây hiệu quả nối, tức không làm âm thứ nhì biến đi. Vì vậy khi ta đọc nhanh một chuỗi âm thanh thì sẽ có hai hiệu ứng.

Thứ nhất là tần số sẽ tăng. Tần số là chu kỳ lập lại. Trong các biểu đồ biểu thị âm thanh, trục ngang có khi biểu thị cho tần số, có khi biểu thị cho thời gian. Vì vậy khi tần số/thời gian tăng nhanh lên, thì thời gian đi từ điểm xuất phát âm thanh đến điểm âm thanh đến sẽ rút ngắn lại.

Thứ hai là đọc nhanh tạo tác dụng nối âm. Tương tự như hạt vật chất chỉ sinh năng lượng khi tác dụng lên nhau thành phản ứng dây chuyền, thì sự tác động của âm này lên âm kia sẽ sinh ra năng lượng. Năng lượng này vừa là nhân vừa là quả của tốc độ âm thanh do người đọc phát ra. Đọc (hay tụng mật chú) nhanh thì tạo năng lượng, năng lượng phát ra này quay ngược trở lại để nâng các âm thanh đâm bổ vào nhau nhanh hơn.

Năng lượng là độ lớn hay biên độ (amplitude) của sự rung. Bất cứ một sự rung nào, hay một âm thanh nào, cũng có ít nhất hai yếu tố vật lý là tần số và biên độ. Ai từng đọc truyện chưởng của Kim Dung cũng mê các cao thủ có khinh công tuyệt đỉnh, “thân pháp như vệt khói mờ” của một nhân vật võ lâm đang khai triển khinh công. Thử tưởng tượng một cao thủ đang đứng cạnh mình, anh ta thi triển khinh công chạy quanh phòng rồi về đứng cạnh mình. Cái khoảnh khắc từ khi anh ta vận công lực cho đến khi chạy ngược trở lại nơi đứng tùy theo vào nội lực (biên độ) và tốc độ (tần số) của anh ta. Trong tích tắc ấy, mình thấy gì? Vì anh ta là cao thủ nên mình chỉ thấy một ‘vệt mờ’. Vệt mờ này gây ra do sự di chuyển năng lượng của anh ta. Anh ta càng chạy nhanh thì năng lượng càng mạnh, ngược lại nhờ năng lượng (nội lực) nên anh ta càng chạy nhanh. Nhưng dù thân hình anh ta có biến thành một vệt mờ trong tích tắc, thì ta vẫn thấy được vệt mờ ấy. Ta không thấy thời gian chạy quanh phòng của gã cao thủ nhưng thấy cái bóng của sự di chuyển ấy, tức thấy biểu thị của thời gian, biểu thị của tần số, của sự rung chuyển.

Nhưng đó là cái thấy của người quan sát trước một hiện tượng hữu hình. Còn đối với chính gã cao thủ thì sao? Gã sẽ không thấy các hiện tượng vừa mô phỏng vì gã là người trong cuộc, người tạo ra các hiện tượng đó. Thử đặt mình vào vị trí gã cao thủ. Trước khi “hù” quần hùng về môn khinh công ảo diệu của mình, gã sẽ ước lượng không gian căn phòng, ước định với khoảng cách như thế mình có thể thi triển khinh công như cái chớp mắt không. Như vậy không chỉ tính toán không gian và thời gian, gã còn phải tính đến năng lượng cần có để biến mình thành một “vệt mờ”. Gã phải có ý thức rất rõ rệt về điều sắp làm (chạy), và cả trong khi chạy cũng phải ý thức rất rõ điều đó. Trình tự để thực hiện việc chạy quanh căn phòng diễn ra khá phức tạp, nhưng có thể  nói tóm lại trong hai bước căn bản: đầu tiên là phát khởi một ý muốn chạy, sau đó là việc thực hiện ý muốn đó. Hai bước này nói chung là ý thức. Ý thức tạo nên sự rung (tần số và năng lượng).   

*

Giả sử như mình tập trung vào cái âm đang phát tới cái mức độ mà mình quên luôn mình, đến cái mức độ mà mình và âm thanh là một, không còn phân biệt nữa, thì điều gì sẽ xảy ra?

Câu trả lời sẽ không có ở đây bởi vì câu giải đáp chỉ có ý nghĩa đối với người muốn thực hành điều đó, tức muốn toàn tâm toàn ý hòa cùng âm thanh mà mình phát ra “để xem điều gì xảy ra”.

Phẩm tính vĩ đại của Phật không phải ở giáo điều, mà ở thực hành. Giáo điều hay kinh tạng cũng chỉ là lời nói, cái phi thường và nhân hậu của lời Phật (Kinh) là để ta thực hành chứ không phải chỉ để làu thông. “Người lão thông pháp học và đọc thuộc lòng kinh điển mà không hành theo lời dạy, con người dễ duôi ấy cũng tựa như kẻ chăn bò”. (Kinh Pháp cú, câu 19). Kẻ chăn bò biết có bao nhiêu bò nhưng bò vẫn là của người khác, không phải của mình.

Mật chú, âm thanh cao tột của vũ trụ (tạm mượn “vũ trụ” để có hình tượng mà nói), không cần giải nghĩa, nếu phải nói vòng vòng điều nọ điều kia thì cũng là mượn phương tiện để nói đến một công cụ khác (mật chú). “Phương tiện” như thế bởi nhiều người thích cái gì cũng phải cụ thể, phải sờ được, thấy được, hay chứng minh được. Cách tốt nhất là sau khi thấy “mờ mờ nhân ảnh” một vài nghĩa lý của mật chú là hãy thực hành. Tụng mật chú bằng âm thanh của chính nó. Tụng mật chú không chỉ bằng lời mà bằng sự tập trung của tất cả tế bào trong thân thể vào mỗi âm phát ra, để mỗi tế bào trong thân ta rung lên, hòa cùng, nhập vào và là một với mật âm.

Khi toàn tâm đọc chú đến mức quên luôn mình đang đọc những chuỗi âm thanh kỳ lạ ấy, thì sao?

Tôi sẽ không còn là tôi. Người không còn là người. Xác thân này sẽ không thuộc về xác thân này. Nó qua… bờ bên kia.

Hồ Đắc Túc
Tập san Pháp Luân - số 75, tr72, 2010]