Phật giáo Việt Nam sinh hoạt thời mới vào - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

1. Giao Chỉ (Chiao Chih)

* Bối cảnh chính trị-xã hội Giao Chỉ

111 BC-39 AD thời Bắc thuộc

Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: An Định, Luy Lâu (Liên Lâu), Cú Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Khể Từ, Tây Vu, Long Biên và Chu Diên.

Giao Chỉ (Chiao Chih) từ trước những năm 40 AD là một nước độc lập có chủ quyền, có pháp luật riêng (Luật Việt).

Sau nhà Trưng (40-43) mất, Mã Viện mở cuộc thanh trừng qui mô, chúng càn quét những lãnh tụ kháng chiến Giao Chỉ, vây bắt hơn 300 “cừ soái”, đưa đi đày sang Linh Lăng1 (Trung Quốc) tạo nên thế chính trị Giao Chỉ bất ổn. Rồi nhiều người đã tìm đường sống trước những đợt thanh trừng qui mô của chính quyền xâm lược phương Bắc bằng cách cải trang vào chùa, hiện trạng đã tạo nên cao trào “ẩn dương nương Phật” sau thời nhà Trưng. Một Thiều Hoa, một Nàng Xuân, một Bát Nàn, họ là những lãnh tụ Giao Chỉ tiêu biểu cho nhóm người “làm lại cuộc đời trong cửa Phật” để chờ ngày nêu cao cờ nghĩa đấu tranh cho độc lập dân tộc.

Từ sau nhà Trưng đến trước Sĩ Nhiếp đất nước lại rơi vào tình trạng nội thuộc Trung Quốc.

Đến sau khi Hán Linh Đế (168-189) băng hà, các phương loạn lạc, chỉ có Giao Châu tạm yên, “các bậc dị nhân phương Bắc” tìm sang lánh nạn (Mâu Tử, tựa Lý hoặc luận).

Đến thời Sĩ Nhiếp, 20 năm (206-226) tự trị, Giao Chỉ tạm yên ổn bên cạnh thế chiến Tam Quốc, là đất tạm yên cho dân lánh nạn từ phương Bắc đến.

Ngô Chí: “Sĩ phu quận Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại tùng chính thành công, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận, hơn hai mươi năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, bọn đến trọ ở2 đều được nhờ ơn”. Ngô Chí 4 tờ 7b7-11 cho biết: “Nhiếp và anh em đều là anh hùng các quận, đứng đầu một châu, khắp ở muôn dặm, uy tôn vô thượng (...), đương thời quý trọng, chấn phục trăm man, Úy Đà không đủ hơn”.

248 TL, Bà Triệu khởi nghĩa.

280 TL, Khương Tăng Hội mất

2. Ngã đường đạo Phật vào Việt Nam

Đạo Phật vào Việt Nam theo ngã đường nào? Có 7 sử kiện cung cấp thông tin về ngã đường đạo Phật đến Việt Nam.

2.1. Về mặt địa dư.

Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương vốn là nơi giao lưu giữa 2 nền văn minh xưa nhất Châu Á mà cũng có thể là xưa nhất của cả loài người, đó là 2 nền văn minh Ấn-Hoa, do đó đã tiếp nhận ảnh hưởng do từ 2 phía: Ấn Độ và Trung Hoa.

Lại nữa, bán đảo Đông Dương nằm giữa biển Đông và vịnh Bengale, được tạo thành bởi những dãy núi từ Tây Tạng chạy dài về Đông Nam ra đến biển Đông. Ở giữa các giải núi đó là những thung lũng, cũng là nơi phát nguồn của những con sông lớn như sông Mênam tạo thành đồng bằng Thái Lan; sông Mêkông tạo thành các đồng bằng Campuchia và Nam Việt Nam; và sông Hồng, sông Đà tạo thành đồng bằng Bắc Việt Nam. Với một vị trí giao lưu như vậy, Việt Nam đã trở thành chiếc cầu nối liền sự giao lưu giữa Ấn Độ và Trung Hoa, vì thế Việt Nam còn có tên gọi là bán đảo Ấn-Hoa (Indus-Chinos). Ngay từ những thế kỷ đầu trước lịch Tây, đất Giao Chỉ (old Vietnam) vốn:

Là con đường thông sứ giữa Trung Hoa với các hải đảo Nam Thái Bình Dương.

Là cửa ngõ, trạm dừng chân trong quan hệ buôn bán giữa Ấn-Hoa; giữa Ấn-Hoa với các nước La Mã, Hy Lạp. Nói chung là trong quan hệ buôn bán giữa Ấn Độ với Viễn Đông và Địa Trung Hải.

Là “ngã tư các dân tộc và văn minh” (Crossroad of de civilisation=Carrefour despeuples et de civilisation)3.

2.2. Về mặt thời tiết-gió mùa

Ấn Độ là một bán đảo khổng lồ nằm bên bờ vịnh Bengale, Đông Dương cũng là một bán đảo nằm về Đông Nam Thái Bình Dương. Trong khi đó Giao Chỉ (old Vietnam, là một phần của bán đảo Đông Dương) lại là cửa ngõ đi vào Trung Hoa, do vậy tính chất khí hậu, gió mùa đã trở nên nguyên do chủ yếu quyết định cho tuyến trình giao lưu trên biển giữa Ấn-Hoa; và giữa Ấn-Hoa với các hải đảo Nam Thái Bình Dương. Như vậy, trên hành trình giao lưu trên biển, các thương nhân Ấn phải theo gió mùa Tây Nam để đi về Viễn Đông, qua Đông Nam Á, Mã Lai, Nam Dương, Phù Nam, Giao Chỉ, v.v... Từ Giao Chỉ họ đi vào Trung Hoa. Khi đến Giao Chỉ họ phải dừng chân đến sang năm, chờ gió mùa Đông Bắc để trở về Ấn Độ. Trong khi nằm chờ một năm ròng rã đó, đủ thời gian để họ sinh hoạt giao lưu về kinh tế, nông nghiệp, y học, đặc biệt là về tôn giáo với dân bản xứ.

Trong những chuyến đi xa hằng năm với nhiều tháng lênh đênh trên biển cả như thế, cho nên trong mục đích cầu mong cho trời yên biển lặng, những thương gia Ấn Độ vốn có tín ngưỡng Phật, Bồ-tát mà trong đó tín ngưỡng Phật Nhiên Đăng Dipankara và Bồ-tát Quán Thế Âm Avalokitesvara là tiêu biểu của tín ngưỡng thời bấy giờ nên họ đã thờ phụng Phật, Bồ-tát theo đoàn thuyền. Và trong chuyến đi xa như vậy, họ cũng sẵn lòng đón tiếp, thỉnh mời những Danh Đức, Cao Tăng nào có mục đích ‘đi xa giáo hóa’ theo đoàn thuyền với quan niệm được phúc lành cho chuyến đi, được trời yên biển lặng. Chính do vậy, cho nên các bậc Danh Đức, Cao Tăng Phật giáo đã đi về Viễn Đông và “gieo hạt” niềm tin Phật trên vùng đất mới.

2.3. Về mặt biến cố lịch sử.

Đạo Phật truyền rộng ra các nước ngoài cõi Ấn Độ do nhiều nguyên nhân, mà trong đó có 4 điểm nổi bật:

1. Vào giữa thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, đại đế A-dục (Asoka) (273-232) chinh phạt dân Kalinga đến tận bờ biển Đông Ấn, một số dân bản xứ đã phải bỏ quê hương ra đi tìm đường sống, đây là dịp tạo nên đợt di dân ra nước ngoài.

2. Đến những năm đầu công nguyên, người Kushans vào đánh chiếm Ấn Độ, lại tạo nên đợt dời dân tương tợ.

3. Vào những thế kỷ thứ 1 trước và sau Công nguyên, Phật giáo Đại thừa chuyển hướng hưng thịnh. Bấy giờ các trung tâm Phật giáo được thành hình và dần dần trở nên những trung tâm Phật giáo Đại thừa tiêu biểu mà điển hình là các trung tâm Aramavati và Narajunakonda ở miền dọc biển Đông Ấn Độ. Từ các trung tâm nầy đã đào tạo những “nhà truyền giáo” và cung cấp sản phẩm mỹ thuật như: tượng Phật ra các nước Phật giáo khác.

4. Với khuynh hướng “Chúng sanh vô viên thệ nguyện độ” đã khiến những Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa Ấn Độ, người mà trên đường giáo hóa đã đem chất liệu Phật truyền rộng đến các cõi xa xăm ngoài ngàn dặm.

Như vậy, đạo Phật được truyền rộng ra các nước là do từ nhiều nguyên nhân mà trong đó các xứ trên đảo biển Nam Thái Bình Dương như Indonexia, xứ Đông Dương v.v... đã được “Ấn Độ hóa” (Hinduization), thì nơi đây chính là vùng đất tốt để những nhà truyền giáo phát triển đạo Phật trên vùng đất mới. Theo ông G. Ferrand trong tạp chí Journal Asiatigue juillet aut 1919 khẳng định thì: “Những bước đầu Ấn Độ hóa v.v... xứ Indonexia phải xảy ra trước Công nguyên”4. Việt Nam cũng nằm trong vòng ảnh hưởng “Ấn Độ hóa” nầy và như vậy Phật giáo cũng đã đến Việt Nam trước Công nguyên.

2.4. Về mặt kinh tế.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu về sự lớn mạnh của Ấn Độ vào những năm đầu kỷ nguyên TL, đó là do mở rộng buôn bán.

Bấy giờ, các đế quốc ở Trung Đông, như La Mã, Hy Lạp đang lớn mạnh, sự phát triển buôn bán rất là phồn thịnh, nhất là có nhu cầu lớn về mặt hàng xa xỉ. Trong khi Ấn Độ vào những thập niên đầu của thế kỷ I TL đã có quan hệ buôn bán với các đế quốc La-Hy và do đó Ấn Độ đã thu vào số vàng rất lớn. Rồi bỗng hoàng đế Vespasien (69-79TL) ra lệnh chấm dứt cuộc chảy máu vàng, do đó Ấn Độ vào thế kỷ đầu TL đã buộc phải hướng về Đông Nam Á và Viễn Đông trong quan hệ buôn bán để tìm số vàng mà mình cần (Sewell sđd). Chính do thế đã chuyển trào lưu “Ấn Độ hóa” hướng về Viễn Đông và Phật giáo cũng theo con đường đó mà được truyền bá và lớn mạnh ở Viễn Đông, trong đó có Giao Chỉ (old Vietnam).

2.5. Về mặt ngôn ngữ.

Trên trục giao lưu Ấn-Hoa, Giao Chỉ là nơi thuận lợi về mặt địa dư, thời tiết, khí hậu, v.v… Bên cạnh đó, sự giao lưu về các mặt: văn hóa, xã hội, ngoại giao, chính trị, nhất là về kinh tế ngày càng phát triển, cho nên trên vùng đất Ấn-Hoa nầy, ngôn ngữ giao tiếp cũng được mở rộng trong cộng đồng xã hội. Nói cách khác, Giao Chỉ là đất duy nhất hội đủ những yếu tố cho một thị trường giao lưu quốc tế, nơi đây con người có khả năng giao tiếp bằng hai thứ tiếng Ấn-Hoa; và bằng hai thứ chữ viết Sanskrit-old Chinese. Mà điều quan trọng hơn cả là Đất nầy có thể tìm người thông dịch dễ dàng cho những nhà truyền giáo.

2.6. Về mặt tìm hiểu tên đất, đồ vật xưa.

Các tài liệu sử Trung Hoa có nói đến những vương quốc nhỏ được “Ấn Độ hóa” nằm rải rác ở các đảo biển Nam Thái Bình Dương như Giava (Ye Tiao-Yavadvipa)5, Xumatra, và ở Nam Dương như: Chợ Hạt Tiêu (Takkala), đảo Long Nảo (Karpuradvipa), đảo Dừa (Narikeladvipa), thị trấn Vàng (Kanakapuri) v.v... Đó là những vùng đất rất tốt cho các cuộc dời dân đến ở, và vì thế, số người Ấn dời chỗ ở ra các đảo biển Đông ngày càng nhiều. Vương quốc Phù Nam (Founan) là vùng đất tiêu biểu trong số đó mà lịch sử dựng nước lại do chính người Bà-la-môn Ấn Độ tên là Kaundinya tạo nên vào thế kỷ thứ I TL6

Ngoài ra, tại nhiều nơi trên vùng đất các vương quốc đó, người ta đã tìm thấy nhiều đồ vật xưa còn lại mang đủ loại hình phong phú, từ trang sức cho đến đồ dùng trong sinh hoạt hằng ngày. Tại Ấn Độ cũng như ở Phù Nam (Founan), người ta đã tìm được những đồng tiền vàng của đế quốc La Mã. Tại Quảng Nam tìm thấy tượng Phật Đông Dương, là những kỷ vật còn lại đẹp nhất của trường phái điêu khắc thuộc trung tâm Phật giáo Amaravati Ấn Độ7. Những chứng tích điển hình như thế đã cho thấy sự quan hệ giao lưu giữa Ấn-Hoa với La-Hy (La Mã-Hy Lạp); giữa Ấn-Hoa với Viễn Đông. Chính từ cửa ngõ giao lưu buôn bán nầy, đạo Phật Ấn Độ được truyền ra nước ngoài. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng nầy, vậy Việt Nam tiếp nhận đạo Phật do con đường nào và từ bao giờ?

2.7. Con đường Tơ Lụa (the route silk).

Ngã đường truyền giáo của đạo Phật.

Giới học giả Tây phương điển hình là Prjuluki, Ông cho rằng Phật giáo truyền ra nước ngoài qua con đường buôn bán (trade). Thật vậy, vào những thế kỷ đầu trước cũng như sau Công nguyên, tơ lụa là những mặt hàng thường dùng trong giới mua bán của nhiều nước lớn. Đạo Phật do theo ngã đường mua bán mà được truyền ra các nước ngoài, nên con đường đem giáo lý Phật đến các nơi còn được gọi là “con đường Tơ Lụa”. Nói cách khác: Con đường Tơ Lụa, ngã đường truyền giáo của đạo Phật. Con đường truyền giáo này:

Theo đường biển, phương Nam, đạo Phật đến các nước Tích Lan (Sri Lanka) Miến Điện (Myanma), Thái Lan (Thailand), Java (Diệp Điều Quốc), Nam Dương (Indonexia), Mã Lai (Malayxia), Phù Nam (Founan), Chân Lạp (Campuchia), Chiêm Thành (Chàm-Champa), Giao Chỉ (North Vietnam). Các nước Phật giáo trong ảnh hưởng phương Nam gọi là Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Nam tông.

Theo đường bộ, phương Bắc, đạo Phật đến các nước vùng cao nguyên Trung bộ Châu Á như: Kế Tân, Khương Cư (Sogdiane), Vu Điền, Qui Tư, Sa Lạc, Cao Xương, Đại Nhục Chi, An Tức, Tây Tạng (Tibet) Mông Cổ (Mogolia), Trung Hoa (China), Đại Hàn (Korea), Nhật Bản (Japan), Việt Nam, v.v... Các nước Phật giáo trong ảnh hưởng phương Bắc gọi là Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Bắc tông. Ngoài ra còn phải ghi nhận một ngã đường khác nữa đó là:

Theo đường thủy-bộ về hướng Tây-Nam, bắt đầu từ Nam Ấn hay Trung Ấn rồi đến Miến Điện, qua Vân Nam, Lào, vào Việt Nam, mà cũng có thể do từ Miến Điện theo sông Mênam, sông Mêkông, qua Thái Lan hay qua Lào rồi vượt Trường Sơn vào Thanh Hóa, Nghệ An, để đến Việt Nam.

Như vậy đã rõ, với 6 sử kiện điển hình trên cho thấy là đạo Phật đến Việt Nam theo 3 ngã đường: thủy, bộ và thủy-bộ. Trong khi đó, Giao Chỉ (old Vietnam) vốn là nơi gặp gỡ giữa hai dòng Phật giáo Nam-Bắc truyền, vì thế, ngay từ rất sớm, đạo Phật đã được “gieo hạt” trên vùng đất nầy. Tuy nhiên trong buổi “bình minh “của Phật giáo Giao Chỉ (Chiao Chih), con đường thủy từ phương Nam đóng vai chủ yếu và lớn mạnh hơn cả so với con đường bộ phương Bắc cũng như so với con đường thủy-bộ Tây-Nam. Đến đây, vấn đề được đặt ra là vùng đất nào của Việt Nam tiếp nhận Phật giáo đầu tiên.

Tâm Phương.(Còn nữa)

Chú thích:

1. Hậu Hán thư 116 tờ 6a 11
2. “Bọn đến trọ ở” là chỉ cho Sĩ nhân Trung Quốc đến để tỵ nạn, con số lên đến hàng trăm người
3. Nguyeãn Ñaêng Thuïc - Lòch söû tö töôûng Vieät Nam, T.II tr ?
4. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Sđd, tr 14
5. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tr14, 1988
6. Lê Hương - Sử liệu Phù Nam. tr 43-51
7. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, T.1, tr 24. 1974

[Tập san Pháp Luân - số 5]