Ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp lên nét điêu khắc ban đầu của Phật giáo - Phần 1

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

Không còn bao lâu nữa Thế Vận Hội Olympics sẽ khai diễn tại thủ đô Athens của Hy Lạp, từ ngày 13 - 29/ 8/ 2004. Khởi sự từ thời xa xưa mỗi 4 năm một lần, Olympics được xem đã bắt đầu vào năm 776 trước Công nguyên và kéo dài trong hơn 1000 năm tại vùng đất thiêng Olympia là nơi diễn ra các cuộc tranh tài. Olympia được đặt tên theo ngọn núi Olympus, là nơi ngự trị của các thần linh mà đứng đầu là thần Zeus. Olympia là khu đền thiêng ở vùng quê từ khoảng năm 1000 trước Công nguyên, dùng để thờ thần Zeus. Trong sự mịt mờ của các huyền thoại, nguyên ủy nào đưa đến cuộc tranh tài Olympics đầu tiên, đã bị nhận chìm trong chiều sâu của thời tiền sử, cho nên nguồn gốc của cuộc tranh tài Olympics đã hòa nhập với đặc tính huyền thoại và tôn giáo của Hy Lạp. Tôn giáo thấm nhuần mọi khía cạnh của đời sống tại Hy Lạp cổ đại, nên thể dục thể thao không nằm ngoài yếu tính ấy.

Việc tranh tài thời cổ Hy Lạp mang nặng tính tôn giáo qua sự kiện các lực sĩ thắng cuộc đã dâng hiến phẩm vật đoạt giải lên thần Zeus. Nhờ thế mà vào thế kỷ 21 này, chúng ta còn chiêm ngưỡng được những phẩm vật bằng đồng của các lực sĩ dâng hiến tại đền thờ thần Zeus vào mấy thế kỷ trước Công nguyên. Đế quốc Hy Lạp ngày xưa thật rộng lớn và cuộc tranh tài tại Olympia dành cho dân chúng ở tất cả các nước trong đế quốc, cũng như cuộc tranh tài không chỉ có giới yêu chuộng thể thao tham dự, mà các nhà triết học nổi tiếng của Hy lạp như Thales, Platon, Aristotle cùng với các sử gia, thi hào cũng đều dự khán.

Nói đến văn hóa cổ thời của Hy Lạp là nói đến rất nhiều khía cạnh, nào là thơ của Homer, nhạc Hy Lạp xưa và nay, phim ảnh, hội họa, tôn giáo xưa, các vị thần linh và những huyền thoại của Hy Lạp. Tuy nhiên, điểm đặc biệt đáng chú ý nhất đó là: nghệ thuật điêu khắc của Hy Lạp và nghệ thuật điêu khắc lúc ban đầu của Phật giáo có mối liên hệ với nhau.

Người ta cho rằng mỹ lệ của Hy Lạp đã biến thể sang đường nét căn bản trong các hình tượng của Phật giáo, khởi đi từ một vùng mà nay, một phần thuộc về Afghanistan, một phần thuộc về Pakistan. Xưa kia nơi đây là vương quốc Gandhara với những triều đại kéo dài từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên và việc giao thương qua vương quốc nầy theo đường Tơ Lụa (Silk Road) đến Trung Hoa rồi sang tận Nhật Bản. Tại Nhật Bản, hình tượng của nghệ thuật Gandhara là mẫu mực chính cho các hình tượng nghệ thuật của Phật giáo trong nhiều thế kỷ cho đến khi Thần đạo Shinto tại Nhật phát triển thì tiêu chuẩn mỹ lệ của Hy Lạp mới hòa nhập dần vào mỹ thuật của Nhật. Vậy thì nghệ thuật của Hy Lạp được truyền đi như thế nào đến tận phương Đông?

 Nghệ thuật Hy Lạp đã truyền đi dọc theo đường Tơ Lụa từ Hy Lạp qua nhiều thành thị đến miền Bắc Ấn Độ, rồi sang Trung Hoa và Nhật Bản bằng 2 đường chính yếu: một là đường ngang qua Ấn Độ, một đi lên phía Bắc tới Hắc Hải, nơi có một số bộ lạc của dân du mục với nếp sống khác biệt. Các nhóm du mục nầy thường tới lui vùng Trung Á và Trung Hoa. Họ trao đổi giao thương với các cộng đồng định cư trên đường du mục, mua bán đổi chác các vật dụng với Hy Lạp. Bằng vào cách đó họ đã đem tiêu chuẩn mỹ lệ trong nghệ thuật Hy Lạp vào nghệ thuật của chính họ. Những cổ vật đào xới được ở Trung Á và Hắc Hải như các tượng người, ngựa, v.v… cho thấy đã chịu ảnh hưởng của Hy Lạp rất rõ. Vì thế khi nhìn vào các cổ vật của dân du mục nơi đây, đó là nhìn vào sự biến thể của nghệ thuật Hy Lạp lan đi trên đường Tơ Lụa cùng với dân du mục qua việc mua bán hàng hóa mà họ mang theo bên mình. Đây là những món nhỏ và quí bằng vàng, có giá trị thương mại hoặc để đeo trên người làm đồ trang sức, hoặc giữ làm của gia bảo, hoặc dùng để trao đổi lấy món khác. Những cổ vật tìm thấy được là kiếng, lược, đồ trang sức bằng vàng chạm trổ tinh vi. Chứng tỏ hình ảnh khắc trên cổ vật có đường nét mỹ thuật thấm nhập từ một nền văn hóa nầy sang văn hóa khác.

Ngoài việc lan truyền theo sự giao thương trên đường Tơ Lụa, người ta phải kể tới việc người Hy Lạp định cư tại các vùng giao thương nầy. Sự lan tràn của người Hy Lạp về phương Đông vốn đã có từ lâu, từ nhiều thế kỷ trước Tây lịch và được tăng cường thêm nhờ vào cuộc viễn chinh của Alexander Đại Đế vào thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch. Nên bên cạnh các món vật được chế tạo để dành riêng cho việc mua bán trao đổi với dân du mục trên đường Tơ Lụa, người ta còn tìm thấy trên các tượng điêu khắc đào được trong vùng, những đường nét và tính chất của nghệ thuật Hy Lạp.

Khi Đại đế Alexander mất đi, đế quốc của ông tan rã thành nhiều tiểu quốc mang đặc tính Hy Lạp trong các vùng Afghanistan, Pakistan và miền Bắc Ấn Độ. Nhờ những tiểu quốc nầy mà kiểu mẫu nghệ thuật của Hy Lạp lan tràn nhiều hơn và nhanh hơn. Đồ vật đào được ở Trung Á như Samarkhand tạc hình người, hình ngựa, hình kỵ mã, hình chiến sĩ, v.v… không khác gì đồ vật tìm thấy ở Hy Lạp trong cùng thời kỳ nầy. Tuy nhiên các tiểu quốc Hy Lạp không tồn tại được lâu, những đợt xâm lấn từ Ba Tư đã chiếm đoạt các tiểu quốc nầy và khi ấy, kẻ xâm lăng được thừa hưởng nghệ thuật của Hy Lạp. Và vì thế mà trong vùng có ít nhất 3 nền văn hóa và mỹ thuật hòa nhập với nhau, đó là nền văn hóa du mục, văn hóa Hy Lạp và văn hóa Ba Tư. Chúng ảnh hưởng lẫn nhau làm phát sinh những niềm tin tôn giáo và mỹ thuật đặc thù của vùng nầy.

Trong các tiểu quốc nầy, tiểu quốc Bactria và Gandhara vẫn giữ được phần nào văn hóa Hy Lạp, dù rằng họ bị tách lìa hoàn toàn khỏi vùng Địa Trung Hải khi nằm dưới sự cai trị của La Mã. Gandhara vì vậy là một nơi lẻ loi, xa xăm của Đế quốc La Mã.

Khi đi đến bất cứ nơi nào trong vùng Trung Á, người ta cũng sẽ tìm thấy một chút nghệ thuật Hy Lạp còn sót lại dưới hình thức nầy hay hình thức khác. Đó có thể là đồng tiền xưa vào thế kỷ thứ 7 sau Tây lịch, có khắc tượng thần trong thần thoại Hy Lạp, như thần “mỹ thuật” mà ta quen biết dưới tên thần Venus, hay tượng thiếu niên với những đường nét thật Hy Lạp. Một trong những vùng cho thấy ảnh hưởng của Hy Lạp rất mạnh mẽ là tiểu quốc Gandhara.

Qua một chút lịch sử của nơi nầy thì vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, miền Bắc Ấn Độ dưới quyền cai trị của vua Asoka (A Dục), Phật giáo được chọn làm quốc giáo. Trước thời đại của vua Asoka, Phật giáo chính yếu là một tôn giáo không có hình tượng, nặng về ý niệm hơn là hình ảnh thờ phượng. Phật giáo khi ấy chưa có hình hay tượng đức Phật, cái mà người ta có là những bảo tháp Stupa, nơi cất giữ xá lợi. Trong thời vua Asoka, nhiều bảo tháp được xây trong nước và nhà vua phân chia xá lợi để mỗi nơi đều có phần cất giữ trong bảo tháp thờ phượng. Bảo tháp vì vậy là hình ảnh sớm sủa nhất của Phật giáo. Sau đó là bánh xe Pháp Luân, nhưng không có hình tượng của đức Phật.

Văn hóa bấy giờ không xem việc có hình tượng đức Phật là điều cần thiết cho Phật giáo, không coi đó là việc chính yếu cho lòng tin. Đây là thời điểm mà những tiểu quốc Hy Lạp thành hình ở Trung Á. Chúng ta không biết nhiều về những tiểu quốc nầy, ngoài các di tích còn sót lại mà vật quan trọng là những đồng tiền, trên đó các hình chạm khắc biểu lộ rõ ràng đường nét truyền thống của Hy Lạp, qua nét mặt các vị tiểu vương cùng hình ảnh quen thuộc của các lực sĩ và trận tranh tài. Các vị tiểu vương nầy tuy chịu ảnh hưởng của Hy Lạp, nhưng đã chấp nhận Phật giáo hoặc ít hoặc nhiều mà khoa khảo cổ và sử sách còn ghi lại tên tuổi một vài vị. Thí dụ như tiểu vương Nandana vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, với hình ảnh còn khắc trên các đồng tiền vàng; hay tiểu vương Milinda (tiếng Anh gọi là Menander) có những cuộc đàm thoại về giáo pháp với đại đức Na Tiên (Nagasena) như đã được ghi trong Kinh điển Phật giáo. Và tiểu vương đã cho phép Phật giáo được phát triển trong vương quốc thuộc nguồn gốc Hy Lạp của mình. Gandhara vì thế là nơi gặp gỡ đầu tiên giữa văn hóa Hy Lạp và văn hóa Phật giáo. Sau giai đoạn vài trăm năm tương đối yên ổn nầy, vùng Gandhara bị một loạt xâm lấn mới của những người từ phương Bắc tràn xuống. Đây là sắc dân chạy trốn sự tấn công của người Hung Nô ở phía Tây Hoa Lục. Họ bỏ chạy xuyên qua Trung Á và xuống tới Bắc Ấn. Khi chiếm đóng Gandhara, họ thành lập đế quốc Kushan.

Tới nay người ta vẫn chưa rõ vì lý do nào những người Kushan làm thay đổi nghệ thuật trong vùng. Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là người Kushan thấy rằng, họ cần một hình ảnh rõ ràng để hướng đến niềm tin. Người Kushan chấp nhận Phật giáo là tôn giáo đã có sớm trong vùng trước khi họ tới và họ cũng đòi hỏi phải có một hình tượng để tôn thờ. Cái mà họ tìm thấy tại nơi bị chiếm đóng (tức Gandhara) là những tàn tích còn sót lại của nghệ thuật Hy Lạp, như tượng nữ thần Hy Lạp ở Afghanistan với những đường nét, kiểu thức hoàn toàn mang đặc tính Hy Lạp. Người Kushan khi ấy mới dùng những đường nét, kiểu thức nầy để tạc tượng, khắc hình tả lại cuộc đời đức Phật. Các toán khảo cổ đào được những tượng Phật của Gandhara vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch. Nổi tiếng nhất là 2 tượng Phật khổng lồ tại thị trấn Bamiyan (nay thuộc Afghanistan). Tượng lớn nhất cao 70 thước được tạc trong núi đá, sơn phết rực rỡ khiến người xem có thể chiêm ngưỡng tượng từ một nơi xa hàng mấy cây số. Hai pho tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị chế độ Hồi giáo cực đoan Taliban phá hủy hoàn toàn, nhưng Liên Hiệp Quốc đang có những dự án trùng tu lại 2 công trình văn hóa lịch sử vĩ đại nầy như là di sản văn hóa của thế giới.

Hình tượng tạc ở Gandhara rất hiện thực như ta có thể thấy qua các bức tượng hình đầu của đức Phật bằng đồng, bằng cẩm thạch, nó cho thấy sự hòa hợp thành công giữa nghệ thuật tạc chân dung sống động của Hy Lạp với một tôn giáo xa lạ. Điểm đáng chú ý về kiểu thức điêu khắc của Gandhara là nó có nhiều dạng khác nhau, từ dạng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Á Đông có tính cách trừu tượng, tới dạng nét hiện thực của thế giới Tây phương. Sự khác biệt nầy được thể hiện qua các hình chạm nổi trên tường còn lưu lại đến ngày nay. Nhiều bích họa và phù điêu có thể xem như những bích họa làm tại Hy Lạp, vì lối chạm khắc hình thể hiện rõ mỹ thuật Hy Lạp.

Một điểm đáng nói khác về nghệ thuật Gandhara là nó có khuynh hướng trở về đường nét “tĩnh” trong điêu khắc Ba Tư (Persia) thuở ban đầu. Có thể đó là vì Gandhara thừa hưởng di sản nghệ thuật của Ba Tư, thường tạc tượng đầu của các vua Ba Tư theo lối nầy. Theo quan điểm tạc tượng của Gandhara thì hình đức Phật không phải là của đức Phật, mà là hình ảnh của một lý tưởng hay một điều gì mà người ta hy vọng có thể đạt tới. Việc tạc tượng đức Phật vì thế được xem như cụ thể hóa ý niệm về một con người tuyệt mỹ thập toàn. Thái tử Siddhàrtha được xem là biểu tượng của một thanh niên văn võ toàn tài, được huấn luyện về các môn thể thao, võ nghệ y như một lực sĩ tranh tài Olympics của đế quốc Hy Lạp. Hình ảnh thái tử Siddhàrtha với chiến xa và người hầu cầm cương rất gần gũi với hình ảnh một thanh niên con nhà vương giả của Hy Lạp, được rèn luyện tài năng cho cả thời bình lẫn thời chiến.

Vì thế khi muốn tạo nên một hình ảnh của đức Phật thì hình ảnh lý tưởng được sử dụng là của một lực sĩ Hy Lạp tuyệt hảo, một con người thập toàn. Tiêu chuẩn nầy cũng được áp dụng cho hình tượng các vị Bồ-tát, tuy rằng kiểu thức có thay đổi và có một hàm ý khác. Khi tạc tượng Bồ-tát thời Gandhara, người ta thể hiện sự giàu sang qua y phục và trang sức; như trên đầu có vương miện các vị vua chúa, trên ngực có những trang sức chạm trổ lộng lẫy; trái tai dài vì sức nặng của đồ trang sức và cánh tay có những vòng đeo bằng đá quý.

Nói tóm lại, tượng Phật và tượng Bồ-tát thời Gandhara thể hiện mọi đặc tính của một thanh niên giàu có. Và sự mô tả nầy còn có một hậu ý khác, là thanh niên quý phái đó được hưởng mọi điều thuận lợi trong đời nhưng lại từ bỏ tất cả, không thừa hưởng điều gì về vật chất để cứu độ nhân gian.

Quảng Anh. (Còn nữa)
[Tập san Pháp Luân - số 4]