Nguồn gốc và ý nghĩa 18 vị A-la-hán ở Trung Quốc

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Hình tượng các vị A-la-hán là một trong những đề tài quan trọng trong nền mỹ thuật Phật giáo. Nghệ thuật đó bao gồm những mẫu tượng khác nhau, lưu truyền rất rộng rãi trong dân chúng. Trải qua năm tháng, phương pháp truyền bá trực diện đó đã khắc sâu vào trong tâm khảm của con người.

Trong quá trình truyền bá đạo Phật, ngoài việc biên chép lại kinh sách hay thăng tòa giảng giải những triết thuyết của đức Phật, người xưa và nay thường dùng hình thức hội họa hay điêu khắc để khắc họa những hình tượng kinh điển thường mô tả. Phong cách, bút pháp biến đổi theo từng thời đại, nên sự hình thành những mẫu tượng có nét khác nhau tùy vào sự thịnh hay suy của triều đại đó. Sự ưa chuộng, phát huy và tô vẽ cái đẹp của mỹ thuật Phật giáo phần nào thể hiện được tính cách của mỗi con người. Ở Trung Quốc, việc khởi tạo hình tượng A-la-hán hình thành rất sớm, bắt đầu từ thời đại Nam Bắc triều, lớn mạnh vào cuối nhà Đường và đạt đỉnh cao nghệ thuật vào thời đại nhà Tống. Bắt đầu và phát triển qua nhiều thời đại, hình tượng A-la-hán rất sinh động, phong cách có nhiều nét đặc thù, thể hiện nổi bật khí chất cao nhã của các văn nhân Trung Quốc, thể hiện nhân sinh quan và vũ trụ quan theo từng thời đại.

I. A-la-hán là gì?

Trong các tự viện Phật giáo ở Trung Quốc, có rất nhiều nơi tôn thờ tượng 16 hoặc 18 vị La-hán. Tướng mạo những vị này kỳ lạ khác thường, chẳng ai giống ai: có vị bụng to; có vị gầy như que củi; có vị lông mày dài đến tận đầu gối; có vị mặt đầy vết nhăn; có vị tai to, mũi nhọn; có vị môi dày, răng ít; có vị phong thái đoan trang; có vị ngây ngây, dại dại; có vị cầm chuỗi hạt; có vị cầm gậy trúc, v.v… nhưng nói chung, hình dáng các Ngài đều mang đậm sắc thái phong cách Ấn Độ, không giống những người xuất gia ở Trung Quốc. A-la-hán gọi tắt là La-hán, nghĩa là “Bậc đáng được tôn kính”, hay còn gọi là “Tôn giả” ý nói bậc đầy đủ cả tánh đức và trí tuệ. Trong kinh, La-hán có ba nghĩa:

1. Sát tặc: Bậc đã diệt trừ sạch bọn giặc phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, phẫn hận, tật đố, thân kiến, biên kiến, hư ngụy, vị kỷ, hẹp hòi, làm phương hại đến sự thanh tịnh an lạc của nội tâm và gây cản trở chúng ta tu hành.

2. Ứng cúng: A-la-hán là bậc đáng được mọi người tôn kính cúng dường. Vì sao? Vì các Ngài là bậc chân tu, phạm hạnh, thành tựu vô lượng công đức, phước huệ trang nghiêm, xứng đáng làm bậc mô phạm cho những hành xử và ngôn hạnh của chúng ta.

3. Bất sanh: A-la-hán đã tận trừ tất cả phiền não lậu hoặc, không còn gây tạo ác nghiệp, do đó, không còn chuyển kiếp đầu thai thọ khổ luân hồi.


II. Ảnh hưởng của La-hán đối với Trung Quốc

Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, những bậc Thánh tăng La-hán đạo hạnh cũng dần dần đi vào tín ngưỡng dân gian, sống gần gũi với nhân dân. Lúc đầu, mọi người chỉ thấy hiếu kỳ và yêu thích hình tướng kỳ lạ khác thường của các Ngài. Nhưng sau đó, thấy khả năng phi hành biến hóa pháp lực vô biên thì ca ngợi, tán thán, khởi lòng ngưỡng mộ, cuối cùng, cảm được tấm lòng từ bi, vị tha, cứu nhân độ thế của các Ngài thì tỏ niềm cung kính. Do đó, A-la-hán mặc nhiên được nhân dân tiếp nhận, nhất là trong hội họa, điêu khắc, thơ ca, tiểu thuyết Phật giáo dùng La-hán làm nhân vật và đề tài cho rất nhiều câu chuyện. Đến nay, Trung Quốc còn có không ít núi non, thực vật, thức ăn, vật dụng… vẫn lấy La-hán để đặt tên như: núi, có động La-hán; cây, có tùng La-hán; ẩm thực, có rau La-hán, cơm chay La-hán; trang phục, có áo La-hán, giày La-hán.

III. Xuất xứ 16 vị La-hán

Y cứ theo kinh điển ghi chép thì ban đầu chỉ có 16 vị La-hán. Ngày nay, chúng ta thường nói 18 vị La-hán là do sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc được thêm vào hai vị. Điểm này, chúng tôi sẽ bàn lại ở phần sau.

16 vị La-hán xuất hiện sớm nhất trong Pháp trụ ký, quyển kinh thư do vị Đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la (Hán dịch: Khánh Hữu) thuyết tại Srilanka. Dưới đây, tôi xin nói sơ lược về nội dung Pháp trụ ký:

Sau khi đức Phật Niết-bàn 800 năm, tại nước Sư Tử (nay là thủ đô của Srilanka), có một vị La-hán tên Nan-đề-mật-đa-la đạo hạnh trang nghiêm, biện tài vô ngại, có thể lý giải tất cả mọi nghi vấn, khiến mọi người ai nấy đều được an vui. Vì thế, nhân dân trong nước đó rất thương kính Ngài.

Nhưng rồi một hôm, Ngài nói với mọi người:
- Này các vị, trách nhiệm hoằng dương Phật pháp ở thế gian của tôi đã tạm xong, không bao lâu nữa tôi sẽ xa các vị, ai có thắc mắc gì thì cứ hỏi, tôi giải đáp cho.

Nghe vậy, ai cũng thương tiếc, tủi khóc sụt sùi. Thấy thế, Ngài an ủi:
-  Này các vị! Vạn sự vạn vật trên đời có sanh ắt có diệt, có hợp ắt có tan, chẳng vật gì thường trụ cả, xin chớ quá bi thương. Chỉ cần các vị nương theo Phật pháp tu hành thì tự nhiên sẽ có kết quả. Tôi sống trên đời này hay không cũng không có gì khác cả!

Nghe Ngài nói, lúc này, họ mới chịu nín khóc, hỏi:
- Thưa tôn giả! Ngài sắp xa chúng con rồi, không biết còn có vị La-hán nào tiếp tục lưu lại thế gian không?
- À, đương nhiên là có! Cách đây 800 năm, trước lúc đức Thế tôn sắp niết-bàn, Ngài đã đem chánh pháp vi diệu phó chúc cho 16 vị La-hán cùng với đệ tử của họ, bảo họ tiếp tục lưu lại nhơn gian dốc sức hộ trì hoằng dương để Phật pháp được trường tồn mãi trên thế gian.
- Thưa tôn giả! Đó là 16 vị La-hán nào? Mọi người  giục hỏi.

Thấy vậy, Nan-đề-mật-đa-la nêu rõ danh tánh và trú xứ của 16 vị La-hán, Ngài nói:
1. Tân-độ-la-bạt-la-nọa-xà (còn gọi là  Tân-đầu-lô-phả-la-đọa), vị tôn giả này trú tại Tây-cù-đà-ni-châu.
2. Ca-nặc-ca-phạt-sa, vị tôn giả này trú tại nước Ca-thấp-di-la.
3. Ca-nặc-ca-ly-nọa-xà, vị tôn giả này trú tại Đông-thắng-thần-châu.
4. Tô-tần-đà, vị tôn giả này trú tại Bắc-cu-lô-châu.
5. Nặc-cự-la, vị tôn giả này trú tại Nam-thiệm-bộ-châu.
6. Bạt-đà-la, vị tôn giả này trú tại Đam-một-la-châu.
7. Ca-lý-ca, vị tôn giả này trú tại Tăng-già-trà-châu.
8. Phạt-xà-la-phất-đa-la, vị tôn giả này trú tại Bát-thích-noa-châu.
9. Thú-bác-ca, vị tôn giả này trú tại núi Hương Túy
10. Bán-thác-ca, vị tôn giả này trú ở cõi trời Đao Lợi.
11. La-hỗ-la, vị tôn giả này trú tại Tất-lợi-dương-cù-châu.
12. Na-già-tê-na, vị tôn giả này trú tại núi Bán-độ-ba.
13. Nhân-yết-đà, vị tôn giả này trú tại núi Quảng Hiếp.
14. Phạt-na-bà-tư, vị tôn giả này trú tại núi Khả Trụ.
15. A-thị-đa, vị tôn giả này trú tại núi Thứu Phong.
16. Chú-trà-bán-thác-ca, vị tôn giả này trú tại núi Trì Trục.

Có người hiếu kỳ hỏi:
- Thưa tôn giả, nhưng sao 800 năm nay không ai thấy hình dáng các Ngài?
- Mười sáu vị Đại A-la-hán này cùng chư đệ tử thường tham dự pháp hội khắp các tự viện. Có điều, khi các Ngài quang lâm toàn bộ cách ăn mặc giống hệt như người thường nên hàng phàm phu mắt thịt chúng ta không biết các Ngài là Đại A-la-hán đó thôi - Nan-đề-mật-đa-la đáp.
- Thưa Ngài, đến khi nào thì 16 vị La-hán ấy mới xa thế giới của chúng con?  Mọi người khẩn thiết hỏi.
- Mười sáu vị La-hán phải ở mãi đến khi nào thọ mạng con người sống đến 70.000 tuổi, khi Phật pháp đã hưng thịnh ở nhơn gian thì các Ngài mới ra đi. Lúc ấy, 16 vị La-hán sẽ vân tập lại một chỗ, vận thần thông dùng kim ngân, trân châu, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách các món bảo vật của thế gian kiến tạo một bảo tháp, rồi thỉnh xá-lợi của Phật an trí vào bên trong. Sau đó, cùng chúng đệ tử bay lên hư không nhiễu quanh tháp, xưng tán đức Như Lai, rải các thứ hương thơm, hoa báu cúng dường rồi thưa với đức Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Nhiệm vụ Ngài giao, chúng con đã hoàn thành viên mãn. Bây giờ, chúng con muốn chuyển sanh đến quốc độ khác để hoằng dương Phật pháp”. Nói xong, các Ngài dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân giữa hư không, nhục thân cháy không còn mảy may.– Nan-đề-mật-đa-la tận tình trình bày để mọi người hiểu rõ việc lưu lại thế gian của 16 vị La-hán.

IV. Nguyên nhân đưa đến 18 vị La-hán

Sau khi Pháp trụ ký được Pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn, 16 vị La-hán được đông đảo Phật giáo đồ Trung Quốc hân hoan đón nhận, ca tụng nồng nhiệt. Nhưng trong kinh điển chỉ có 16 vị La-hán, không có danh xưng “Thập bát La-hán”. Thế thì, xuất hiện thêm hai vị nữa là do đâu? Tên các Ngài là gì? Lai lịch thế nào? Hành tung ra sao? Vì sao các Ngài được Phật giáo đồ đời sau chọn đưa vào hàng 18 vị La-hán?

Thật ra, 18 vị La-hán là do từ 16 vị diễn biến phát triển, dần dần thêm vào thành 18 vị. Nguyên nhân chủ yếu là từ khi bắt đầu có hội họa, tiếp đến là điêu khắc, sau cùng là văn học.

Thời Ngũ Đại, cách đây hơn 1000 năm, tại Trung Quốc, có họa sĩ Trương Huyền vẽ tượng 18 vị La-hán. Đây là tượng 18 vị La-hán sớm nhất mà chúng ta được biết.

Triều nhà Tống, đại văn hào Tô Đông Pha phát hiện những bức tượng đó ở đất Đam Nhĩ (tức Nam Hải sau này) nên cao hứng làm 18 bài Tán (một thể văn cổ sau truyện ký, dùng văn tự ngắn gọn để ca tụng hay phê bình thiên nhiên và con người) ca ngợi, nhưng Tô Đông Pha không ghi rõ tên từng vị. Do đó, chúng ta chẳng biết hai vị La-hán 17 và 18 trong bức họa chung qui là ai.

Sau đó không lâu, Hòa thượng Quán Hưu cũng vẽ tượng 18 vị La-hán. Tô Đông Pha từ Nam Hải trở về, lúc đi ngang qua chùa Bảo Lâm ở Thanh Hiệp nhìn thấy bức họa này thì ông viết tiếp 18 bài Tán nữa. Điểm khác nhau giữa lần này và lần trước là ở mỗi bài Tô Đông Pha đều chú thích rõ ràng tên từng vị. Ông cho rằng vị 17 là tôn giả Nan-đề-mật-đa-la, vị 18 là tôn giả Tân-đầu-lô. Nhưng Tân-đầu-lô là gọi tắt của Tân-độ-la-bạt-la-nọa-xà, vị La-hán đầu tiên trong 16 vị mà Tô Đông Pha không nhận ra điều này nên đã lập lại hai lần tên của một tôn giả.

Còn tượng 18 vị La-hán của Trương Huyền và Hòa thượng Quán Hưu vẽ thì, vị 17 được thêm vào là tôn giả Nan-đề-mật-đa-la, người nói Pháp Trụ Ký giới thiệu danh tánh, trú xứ, sự tích 16 vị La-hán; vị 18 là Pháp sư Huyền Trang, vị Cao tăng đời Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh và là người phiên dịch “Pháp Trụ Ký”, làm như vậy cũng không có gì vô lý quá đáng. Sai là ở chỗ Tô Đông Pha đã bỏ ngài Huyền Trang mà trùng lập lại Tân-độ-la-bạt-la-đọa.

Đến đời Tống, niên hiệu Hàm Thuần năm thứ 5 (CN 1269), ngài Chí Bàn viết quyển Phật Tổ Thống Ký, không tán thành việc đưa tôn giả Nan-đề-mật-đa-la vào hàng 18 vị La-hán, vì tôn giả là người giới thiệu 16 vị La-hán, thời gian cách nhau giữa các Ngài đến 800 năm, làm sao có thể kết hợp Ngài với các  nhân vật trong tranh được. Hơn nữa, còn thêm vào tôn giả Tân-đầu-lô tạo nên sự trùng lập càng làm mất đi ý nghĩa. Do đó, Ngài đề xuất nên đưa hai vị tôn giả Ca-diếp, Quân-đồ-bát-thán vào hàng 18 vị La-hán. Ngài Ca-diếp là một trong mười vị đệ tử lớn của Phật, và Ngài Quân-đồ-bát-thán cũng là vị đệ tử được đức Phật rất quý trọng. Lúc tuổi xế chiều, đức Phật  từng dặn:

“Ta nay đã 80 tuổi rồi, sống cũng không còn bao lâu, Ca-diếp, Quân-đồ-bát-thán, Tân-đầu-lô, La-hầu-la bốn vị hành đạo giáo hóa sau Ta nên lưu lại ở đời một thời gian nữa, thay Ta hoằng dương Phật pháp hóa độ chúng sanh.”

Đến khi 18 vị La-hán được truyền vào Trung Hoa, Tây Tạng, thì ngoài 16 vị La-hán vốn có, người ta còn thêm vào cư sĩ  Pháp Tăng (Đạt-ma-đa-la) và Bố Đại Hòa thượng. Pháp Tăng là người núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thường ngày, Ngài tôn thờ 16 vị La-hán và luôn được cảm ứng, ngày nào cũng thấy Phật ngự giữa mây phóng quang. Hình vẽ của Ngài là lưng mang hòm kinh, bên cạnh có con hổ nằm. Bố Đại Hòa thượng tương truyền là hóa thân của Bồ-tát  Di-lặc.

Trong Bí Điện Châu Lâm Tục Biên quyển 4, cũng có tượng 18 vị La-hán. Đời nhà Thanh vua Cao Tông từng viết lời ca ngợi vào bức họa, nhưng vua thay tôn giả Ca-diếp bằng Hàng Long La-hán và tôn giả Di-lặc bằng Phục Hổ La-hán, làm như vậy khác xa với những ý kiến ở phần trước. Mặt khác, việc vua Cao Tông đưa hai vị Hàng Long, Phục Hổ thay ngài Ca-diếp và ngài Di-lặc cũng có người không tán thành vì Long, Hổ là hai con vật tượng trưng của Đạo giáo, không liên hệ gì mấy đến Phật giáo.

Tổng hợp những ý kiến trên, ta thấy sự xuất hiện của 18 vị La-hán hoàn toàn không có căn cứ trong kinh điển, chỉ do các họa sĩ họa nên, ngoài 16 vị La-hán, vẽ thêm vào hai vị và được quần chúng tiếp nhận rộng rãi mà thôi. Từ đó, mỗi khi nhắc đến La-hán là mọi người đều nói 18 vị La-hán, không ai nói 16 vị La-hán. Còn về hai vị được thêm vào là hai vị nào thì do mỗi người mỗi ý kiến nên không ai tìm tòi nghiên cứu làm gì.

Thích Đạo Luận
[Tập san Pháp Luân - số 60, tr53, 2009]