Hướng đi cho một sứ giả Như Lai trong giai đoạn mới

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Đạo Phật tồn tại trên thế gian cách đây hơn 2.500 năm với nền tảng giáo lý vượt thời gian và không gian, đã không ngừng phát triển sâu rộng khắp mọi nơi trên thế giới. Trong giai đoạn mới, những phương tiện văn minh vật chất cuốn hút con người, khiến cho việc giữ gìn và truyền bá giá trị truyền thống của Phật giáo có hiệu quả cần được quan tâm và đòi hỏi người con Phật phải xác định yếu tố nào quyết định cho sự nghiệp ấy thành công.

Như đức Phật đã dạy, yếu tố đó chính là phẩm chất đạo đức trong sáng của con người con Phật. Tu sĩ Phật giáo phải có Phạm hạnh thanh tịnh, phải xứng đáng là Sứ giả Như Lai. Nhưng trong thời đại mới nó phải thích ứng hoàn cảnh hiện tại mà không bị mất bản chất được xây dựng trên nền tảng giới luật Phật chế. 

Bất kỳ một học thuyết, một tôn giáo nào muốn tồn tại cũng phải có người truyền thừa và phẩm chất đạo đức của những vị truyền thừa ấy là quyết định phần lớn sự thịnh suy. Đạo Phật cũng vậy, trải qua mấy ngàn năm, chánh pháp vẫn rạng chiếu với nhiều sắc màu rực rỡ, đó là do công lao không ít của các sứ giả Như Lai, những người đã biết tự trang nghiêm giới thân, trau dồi đức hạnh trong từng phút giây, huân tập giới đức trở thành hơi thở của chính mình. Từ đó, thông qua cách hành xử khéo léo, các Sứ giả Như Lai đã truyền bá Chánh pháp không những bằng khẩu giáo mà còn bằng thân giáo, đem lại lợi ích lớn lao cho tất cả chúng sanh.

Thiết nghĩ, chúng ta may mắn được đức Thế Tôn khai thị cho biết cuộc đời là mộng mị, là duyên sanh. Thế mà khi tiếp xúc với đời thường, chạm mặt với khổ đau, chúng ta cũng không khỏi bàng hoàng tê tái, rõ là:

Loay hoay đã nửa kiếp người
Thu bay trên nửa nụ cười xôn xao
Rõ ràng mở mắt chiêm bao
Biết như mộng huyễn vẫn đau xé lòng.

Vì sao vậy? Chẳng phải thuyền qua sông đã sẵn và chúng ta đã ra khơi từ lâu lắm rồi sao? Tại sao đến bây giờ chúng ta vẫn còn loay hoay hoài trong cảnh trường mộng mị? Phải chăng vì chúng ta chỉ luận đàm giáo lý suông mà chưa hề tiếp nhận áp dụng luồng sinh khí giải thoát ấy vào cuộc sống? Phải chăng chúng ta đã vô tình biến nó thành món đồ chơi cho trò suy luận nhị nguyên. Cho nên, bổn phận quan yếu và cấp bách của người tu sĩ bây giờ là khẩn trương lên đường, đun nóng lại  dòng nhựa sống của chánh pháp trong lòng mình và lòng người nếu có rủi ro đã bị đông cứng. Chúng ta không được phép để lý tưởng của đấng Từ Phụ vô tình biến thành một xác ướp của lịch sử. Chân lý ấy phải được tiếp nối, hoằng dương, phải được thân chứng và trực ngộ của bậc xuất trần thượng sĩ trong giai đoạn mới. Có như vậy mới thể hiện được tinh thần Phật pháp nhập thế của Đại thừa, từ đó mới xây dựng vững chắc ngôi nhà chánh pháp, chuyển hóa xã hội, bởi vì “Phật pháp hưng vong, tăng đồ hữu trách” (giáo pháp của đức Phật hưng thịnh hay suy yếu, Tăng tín đồ phải có trách nhiệm). Là Thích tử Như Lai dù ở thời đại nào, giai đoạn nào cũng phải đặt nặng tinh thần trách nhiệm trước sự tồn vong của Đạo pháp. Bởi Tăng-già là chỗ dựa tinh thần cho hàng thế tục, nên chúng ta cần phải xả bỏ tất cả sự riêng tư nhỏ hẹp để hòa mình vào biển tuệ giác vô phân biệt, cùng nhau bảo tồn Phật pháp, xây dựng xã hội tốt đẹp.

Ngày nay, trước thềm kỷ nguyên công cuộc đổi mới, đất nước đã thay đổi và thăng tiến trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt. Trước ngưỡng cửa tiếp cận, giao lưu hội nhập, trách nhiệm và bổn phận của người tu sĩ Phật giáo không thể thờ ơ, quay lưng với cuộc đời mà phải nhìn vào thực tại bằng con mắt tình thương và trí tuệ. Mặt khác, chúng ta cần phải phát triển đạo đức tâm linh để đem lại hòa bình an lạc cho nhân loại.

Thật vậy, “Phật pháp xương minh do Tăng già hoằng hóa”. Tăng sĩ ngày nay muốn hoằng truyền chánh pháp, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” thì phải trải qua sự đào tạo về Phật học lẫn thế học. Tăng Ni trẻ ngày nay, ngoài kiến thức Phật học thường tỏ ra khá nhạy cảm với vấn đề thời sự, kinh tế, văn hóa,... cho đến việc học ngoại ngữ, tin học, kỹ thuật... Như thế, trào lưu của xã hội sớm đưa giới Tu sĩ vào con đường nhập thế. Nhưng để trở thành một sứ giả của Như Lai trong giai đoạn mới, bằng những kiến thức ấy chưa đủ mà còn phải hoàn thiện phẩm hạnh đạo đức. Những yếu tố ấy chính là điều kiện quyết định sự thành bại hưng vong cho cả Tăng đoàn nói chung và phẩm chất người tu sĩ nói riêng. Bởi vì “Chiếc áo không làm nên thầy tu” mà  cần phải có oai nghi đĩnh đạc mới hình thành nên một Tăng sĩ. Tất cả những điều cần thiết ấy đều lưu xuất từ sự hành trì giới luật trang nghiêm, nhất là tinh thần Bi-Trí-Dũng làm động lực cho mọi Phật sự. Chúng ta hãy nuôi dưỡng niềm thao thức giải thoát bằng nếp sống thanh cao, bằng thiểu dục tri túc.

Nhớ lại, khi đức Bổn Sư sắp nhập Niết-bàn, Ngài tha thiết nhắc nhở hàng đệ tử: “Này các Tỳ-kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các Thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới như người mù được mắt sáng, người nghèo được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là bậc Thầy cao cả nhất. Như Lai ở đời cũng không khác gì tịnh giới ấy”. Một Tu sĩ trang nghiêm bằng giới luật là mảnh đất tốt để tăng trưởng thiện pháp, để phát triển nhận thức chơn chánh, để thấy rõ sự thật cuộc đời. Như thế, Tăng Ni sinh nói riêng, Tu sĩ nói chung cần phải vun bồi tâm đức, trí đức, tuệ đức và hạnh đức một cách xứng đáng để không cô phụ lời dạy cuối cùng của đấng Từ Phụ. 

Ngày nay Tăng Ni sinh trẻ chúng ta còn là măng non, nhưng ngày mai sẽ là những bậc lương đống của Phật pháp. Vì thế, chúng ta nên vạch cho mình một hướng đi cụ thể nhằm mục đích phục vụ Đạo pháp cho hiện tại và tương lai, và không gì khác hơn là bằng con đường trang nghiêm giới thân, trau dồi huệ mạng. Nếu vị nào còn cắp sách đến trường dù là Học viện, Cao Đẳng, Trung Cấp hay Sơ đẳng Phật học, chúng ta hãy cố gắng học cho thật tốt tại trường, giữ gìn tứ oai nghi, tứ sự phải tri túc, đừng xài phí của đàn na tín thí. Chúng ta không đợi khi hết học rồi mới tu, mà phải tu ngay trong lúc học, học trong sự tu. Trên tôn kính các bậc Tôn Sư, dưới giúp đỡ bạn đồng học, về đến chùa ngoài việc lo học bài vở còn phải ổn định các thời khóa tụng niệm, chấp hành nội quy tốt và làm tròn phận sự được giao phó. Nhất là không được xao lãng những điều giới mình đã thọ lãnh, luôn thọ trì giới luật, bởi công năng của giới là ngăn ngừa điều quấy, chấm dứt điều ác. Được như vậy,  chúng ta mới có thể đem lại lợi ích cho mình và người, giúp người tu tập thấy nhẹ nhàng thân tâm, an lạc trong từng bước đi hơi thở. 

Một tu sĩ Phật giáo nghiêm trì giới luật như thế là đã tự thiết lập cho mình một phong thái điềm tĩnh, thanh thoát, là tự tạo dựng niềm hạnh phúc thật sự ngay trong hiện tại. Đây chính là cơ sở của niềm tin, của sự kính trọng khiến cho Tăng sĩ càng vững bước trên con đường hoằng dương chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Đối với Tăng đoàn, chúng ta luôn ý thức rằng cá nhân mình là viên gạch để xây dựng ngôi nhà Phật pháp, đồng thời là bậc Thầy hướng đạo cho mọi loài, là người dẫn đầu trong việc khơi nguồn Chân-Thiện-Mỹ. Cho dù ở đâu, bất cứ lúc nào, chúng ta cũng phải xứng đáng là hình ảnh theo dấu chân của đấng Đạo Sư. Nếu mỗi cá nhân luôn biết đặt mục tiêu “hoằng pháp thị gia vụ, lợi sanh vi bổn hoài” lên hàng đầu và bằng sự tinh tấn tu trì giới luật nghiêm mật để tự trang 

nghiêm cho mình cùng với lòng tự tín và uyên thâm Phật học, thì việc truyền bá Phật pháp mới hi vọng đem lại niềm an lạc thiết thực cho mọi tầng lớp xã hội trong giai đoạn mới. ■ 

[Tập san Pháp Luân - số 27, tr.32, 2006]