Thiền sư Quảng Nghiêm và bài kệ cuối đời của ngài

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Thiền sư Quảng Nghiêm (1122-1190), thuộc thế hệ XI của thiền phái Vô Ngôn Thông, quê ở Đan Phụng, họ Nguyễn, sống vào thời Lý.

(Tiếp theo TSPL.5)

3- Các vần kệ và lời dạy liên quan

Giữa vườn Thiền thơm ngát chất đạo, đặc biệt là dưới thời Lý - Trần, mọc lên rất nhiều tư tưởng đột phá phi phàm, siêu logic. Sự thật là như vậy, nhưng trái lại, có một số học giả lầm tưởng cho rằng, đó là các nhà tu chống đạo, hay các ông “cuồng thiền”. Đâu chỉ mình thiền sư Quảng Nghiêm khẳng định cái “Chân như” vốn có của mình, không cần tìm kiếm đâu hết, càng không cần nỗ lực lặp lại bước chân của người khác mà thiền sư Trí Huyền cũng hơn một lần dạy điều đó với ngài Đạo Hạnh bằng những câu kệ rằng:

“…Bồ-đề rõ trong tầm mắt,
Tìm kiếm lại càng ngăn cách thêm.”

Thế nghĩa là, sự giác ngộ không thể do một ai trao truyền, mà mình tự thực hiện lấy. Thiền sư Nguyên Học ( ?- 1174) cũng đã nói rõ về vấn đề này :

“Đạo không có hình tướng
Nhưng nó nằm ngay trước
mắt ta, không gì làm xa cách.
Hãy trở về tự tâm mà thực hiện
Chứ không thể đi tìm nơi kẻ khác”

Và tiếp, Thiền sư dạy: “Nếu thấy có đắc đạo do sự truyền thừa của kẻ khác, thì sự đắc đạo đó không chân thật”. Bởi vì, một tâm hoa nở rộ khi và chỉ khi tự thân chúng ta vun xới, tưới tẩm nó. Một nụ cười hồn nhiên trong trẻo phải xuất phát từ một rung động tự nhiên, vô ngại, mà không phải do sự bức ép bên ngoài; càng không thể bắt hành giả phải lặp lại nụ cười của một ai đó. Bởi vì, như vậy là đánh mất đi chất liệu trong sáng, hồn nhiên của chính nó. Nụ cười hồn nhiên, trong sáng bao giờ cũng hiện hữu trong ta, như vầng trăng năm xưa cũng chính là vầng trăng năm nay và bây giờ, nó bao giờ cũng hiện hữu trong vũ trụ này; và đặc biệt, nó không có điểm sai biệt về thời gian hay không gian. Chớ truy tìm một mặt trăng ngoài vũ trụ hay một nụ cười hồn nhiên ngoài con người này. Chớ truy tìm một mặt trăng hay nụ cười trong quá khứ hoặc tương lai. Hãy tập tiếp xúc với hiện tại, ngay giây phút này: Một ánh sáng tỏa rạng trong người!

Một lời dạy khác: “Chưa ngộ thầy độ, ngộ rồi ta tự độ”. Cái chí xung thiên của sư Quảng Nghiêm không phải tự dưng mà có, mà nó được trải qua quá trình thầy độ. Do đó, cái lập trường “xung thiên chí” của sư Quảng Nghiêm đồng nghĩa với chữ “ngộ rồi’ ở đây. Chữ “độ” ở vế đầu không có bộ thủy, nghĩa là dạy dỗ, chỉ bảo. Sống trong vòng đời oan nghiệp này, chánh-tà, chân-ngụy… bất phân. Trước thực tại như vậy, là bậc thầy, thì làm sao không thể huấn thị cho đệ tử của mình đôi điều được! Chữ “độ” ở vế sau có bộ thủy - bản thân của nó là nước. Kết hợp mà nói, từ bờ này sang bờ khác gọi là độ. Nếu chữ “độ” đầu là phép đã chế ra lời dạy dỗ, thì chữ “độ” kế tiếp là tháo tung ngôn ngữ, tự mình bước qua, dùng chìa khóa mở toang cánh cửa vô minh, đi vào dòng giải thoát chứ không ai khác có thể thay thế đuợc.

Bản nguyên của Niết-bàn là không có cá tính riêng biệt (không), chẳng thể để nhận biết (vô tướng), và vắng bóng sự theo đuổi hay nắm lấy (vô tác). Đây là ba cánh cửa giải thoát của đạo Phật, là chìa khóa thẳng vào thực tại không tận.

Nhân vì trong giới học Thiền, nhiều học trò cất công tìm kiếm một khái niệm cụ thể về Niết-bàn, Tịch diệt, trong khi đó tôn chỉ của Thiền là sống với thực tại bây giờ và ở đây, nên Thiền dạy vô niệm. Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là phân tử cốt cán của cái “tôi”. Vô niệm, là không còn cái “tôi”, không còn suy tư, bất cứ suy tư gì.

Vô niệm: niệm tức chánh
Hữu niệm: niệm thành tà.
(Pháp bửu đàn kinh)

“Do đó Thiền kỵ lý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lời phi lí luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại thừa đập vào óc thông minh ưa lí luận mà loài người chúng ta hằng tự phụ” – (Thiền qua tranh chăn trâu, Tuệ Sỹ).

Tính phá chấp ấy còn được thể hiện rõ hơn qua chủ trương của Tuệ Trung:

“…Muốn siêu việt tội phước,
 Đừng trì giới nhẫn nhục”

Lời khuyên của Tuệ Trung hay sư Quảng Nghiêm là tiếng nói phá chấp, vô trước; tiếng nói ấy, có lẽ sẽ làm bàng hoàng, choáng ngợp đối với những hành giả mới tập tểnh bước vào Đạo. Nếu người học Phật nào chưa liễu tri phương pháp đốn giáo này (Thiền), thì tất nhiên cũng rơi vào hoài nghi, nhận định sai lệch như những học giả phê bình nói trên.

Thật có lí khi bà Trần Thị Băng Thanh nhận định về tư tưởng của “Hưu Hướng Như Lai” rằng: “(đây)…là cách nói khích lệ, khơi dậy tính tích cực, ý chí và sự sáng tạo của con người”.

Như trước đã trình bày, với lòng tự tin và ý chí kiên cường, dũng mãnh ấy (tất nhiên độ thâm sâu về Phật pháp từng học hỏi trong Sư lúc này không chỉ dừng lại ở mức thế gian, tục đế, mà còn đi xa hơn, là siêu thế gian, chân đế; như ly nước đã “bốc hơi”), chàng trai tu sĩ này hẳn phải vạch riêng một lối về thích hợp với khả năng Đang Có của mình, hà tất phải nhất nhất theo gót chân xưa, dẫu đó là bước chân cách đây 2600 năm của đấng Chí Tôn. Tại sao như vậy? Tại vì, dấu chân xưa ấy đâu phải là môtíp duy nhất. Đường vào thực tại vẫn bàng bạc muôn lối.

Con người ta khi có sẵn một cái gì đó, thì thường ỷ lại, không chịu tìm tòi, phát huy cái tốt đẹp tiềm tàng trong mình, không chịu sáng tạo những cái mới đầy diệu kỳ chung quanh. Có lẽ như vậy, nên các Thiền sư thường đưa ra những lời dạy như là trái ngược với chân lí vốn có. Tuy rằng, Thiền sư phủ định đường xưa lối cũ của Như Lai, nhưng xét cho cùng, tính chất sâu thẳm cũng từ Như Lai mà có; nghĩa là bất kỳ sự chứng ngộ nào đi nữa (tiệm ngộ hay đốn ngộ) trong quá trình trở về với bản lai diện mục đều xây dựng trên căn bản của thực tính Giới-Định-Tuệ; có điều là khi hành giả thực hành nó có “thoát hơi” hay “cô động” lại mà thôi.

Nói tóm lại “…Pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều Thiền Tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn những tiểu sử ấy cho ta thấy, trước khi được đốn ngộ, hầu hết các Tổ, trước hết là Phật Tổ, đều phải trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác: tu thì tiệm mà chứng thì đốn” – (Thiền qua bức chăn trâu, Tuệ Sỹ).

Giả sử Sư dạy rằng có con đường dẫn “tới” Như Lai, thì các học trò lập tức nghĩ ra một ý niệm trái lại là có con đường dẫn “về” súc sinh: Giữa mê và tỉnh; giữa thánh và phàm. Vì vậy, các học trò dễ chấp nhận một khái niệm nhị nguyên về một thực tại. Nếu như bạn tưởng rằng bạn đang ở trên lộ trình giải thoát, thì bạn sinh ra xu hướng thứ hai là chối bỏ lộ trình không giải thoát. Giã từ đường này mà tìm sang đường nọ thì làm sao thấy rõ toàn bộ thực tại. Do cái thấy không như thật của kẻ mông muội, nên các lời dạy của Thiền thường mang tính đánh thức cho ta thấy cái khả tánh vô biên vốn có đang hiện hữu trong con tim diệu vợi này, đồng thời cũng khẳng định chỉ có chính mình mới là nơi nương tựa vững chải nhất cho chính mình.

Như chúng ta đã biết, cốt tủy của Thiền là phá chấp, là nhát búa cuối cùng của Đại thừa đập vào óc thích lý luận của con người. Các công án được các Thiền sư đưa ra cho môn sinh, chính là nhằm vào mục đích đánh thức cao tột ấy. Khác với các cách dạy thông thường, nếu như người tu quan niệm rằng, muốn đạt đến Niết-bàn, hành giả phải chuyển hóa những hạt giống bất thiện đang miên man trôi chảy trong dòng tâm thức này thành những hạt giống thiện, thì trái lại người tu đốn trong óc họ vĩnh viễn không có một khái niệm gì về việc “chuyển hóa” hay phải nương theo cái này, cái kia. Tại đây, ta có thể khẳng định rằng đốn ngộ, là các bậc có căn tánh phi phàm. Căn tánh ấy nếu xét về mặt thời gian thì nó được hình thành từ vô lượng kiếp. Do đó, người phàm phu như chúng ta không nên đem những lí luận tầm thường để tỷ giảo, để phân tích sự phi phàm ấy. Lấy phạm trù này để tỷ giảo với phạm trù kia thì như câu chuyện “Rùa và Cá” vậy. Cho nên, những bậc thức giả khi muốn tìm hiểu về thơ Thiền thì không nên vội đưa ra những ngộ nhận hay những phê phán đáng tiếc.

Trở lại vấn đề Niết-bàn và Tịch diệt. Như phần trên đã trình bày, Niết-bàn hay Tịch diệt không phải ở nơi nào đó xa xôi, mà nó ở ngay tại đây và bây giờ khi hành giả chuyển hóa những hạt giống bất thiện trong tự thân, thành những hạt giống thánh thiện:

“Đây là Tây trúc,
 Tây trúc là đây.
 Trời trăng năm xưa,
 Trời trăng năm nay”.

- Vô Ngôn Thông.

Là người học Thiền, tuyệt đối không nên nỗ lực truy tìm khái niệm tận cùng về Niết-bàn hay Tịch diệt, càng không nên nỗ lực nương vào một mô hình giáo lí giải thoát nào hết, vì Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tính là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này. “Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” hay hình ảnh “niêm hoa vi tiếu” cách đây hàng nghìn năm về trước cũng không nằm ngoài ý nghĩa đánh thức ấy. Phương pháp “dĩ tâm ấn tâm” chính là như vậy. Chúng ta hãy trở lại cuộc đối thoại giữa sư Thường Chiếu và sư Quảng Nghiêm (ở phần l). Khác với sư Thường Chiếu, đi tìm khái niệm về Pháp, rồi cho đó là lời kinh điển. Dưới cái nhìn của Sư, cách học hiểu của  sư Thường Chiếu chỉ như là “vũng nước đọng”, không “bay hơi”, rất sáo mòn, cũ rích. Hay nói cách khác, sư Thường Chiếu học Phật rất chăm, nhưng không biết tiêu hóa, không có tính sáng tạo, chỉ biết ý nghĩa trong ngôn từ, mà không biết ý tại ngôn ngoại; vì vậy Sư rất thích tìm hiểu, định nghĩa về các pháp. Sư  đâu có biết rằng “sự trao truyền có thể xem như là không trao truyền; không có người trao truyền, không có người tiếp nhận”. Bởi “tâm ấn của Phật chính ông đã có rồi, khỏi theo ai tìm cầu”. Và cuối cùng của cuộc đối thoại ấy, sư Quảng Nghiêm trả lời cho sư Thường Chiếu một câu rất hay: “Suốt 45 năm Như Lai chưa hề nói một lời, nếu ai nói Như Lai có nói là phỉ báng Như Lai đó”. Hơn nữa, Chân như ai cũng có, nhưng khổ nỗi, nó vượt ngoài ngôn từ, văn tự, làm sao trình giải đúng về nó được. Đương nhiên, Chân như thì không thể trao truyền cho nhau, cũng giống như ai học thì nấy giỏi, chứ làm gì có sự học thế. Lời dạy này không có gì đáng ngạc nhiên, mà trái lại nó đánh thức trong sư Thường Chiếu sự tỉnh ngộ, vượt qua hàng rào khuôn phép vốn không phải là thực tại chính nó.

Không bước theo lối mòn của Như Lai - tuyên bố như vậy không có nghĩa là Sư đang nghi ngờ cái Đạo của mình, mà Sư muốn mật báo cho đệ tử mình biết rằng trong mỗi người đều hiện hữu một nội lực rất mạnh, có thể xoay chuyển cả đại địa- một Phật tính châu viên. Nam nhi như các ông phải là người làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; cần phải có tính sáng tạo trong việc tu hành, để hòa nhập vào những gì đang diễn ra trước mắt ta. Ngày xưa và ngày nay cách nhau cả gần 26 thế kỷ rồi; cách tư duy, lối sống… của con người ngày ấy và con người ngày này cũng khác nhau nhiều lắm, nên hành giả phải tự đặt mình vào hoàn cảnh, điều kiện phù hợp với thực tại mà tu tập. Mục đích của sự tu tập là nuôi dưỡng tâm thương yêu, nên phương pháp tu hành theo đó mà ứng biến, linh động. Như Lai ra đời với 45 năm hóa độ đã góp phần cống hiến cho nhân loại một nghệ thuật sống vĩ đại; nghệ thuật sống ấy dạy rằng: “Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự diệt tận của khổ và đây là con đường đưa đến sự diệt tận của khổ”. Những nghệ thuật sống này đương nhiên đã được các hàng đệ tử của Ngài ghi chép thành hệ thống, nhưng khi được các hàng đệ tử ghi chép lại như vậy, thì nghiễm nhiên nó trở thành ngôn ngữ rỗng không, mà không phải là bước chân giải thoát của chính Như Lai lúc bấy giờ. Bước chân giải thoát của Như Lai, ngoài Như Lai ra, không có ai biết đích thực về nó. Ta có thể tạm thời hình dung, bước đi của Như Lai là một bản sao chép; bản sao chép ấy ta cần hiểu và áp dụng nó như là không phải chính nó. Bởi vì mỗi người một vẻ, cá tính lại bất đồng, nên nếu hành giả bước như đúc từng bước theo Như Lai, thì đấy chỉ là cái xác chết của sự tu tập mà không phải là linh hồn của sự tu tập. Bản thân của ta sẵn có ánh sáng tuệ giác giải thoát, chứ không phải nó nằm nơi bước đi cách đây gần 2600 năm về trước. Khẳng định ý chí và khả năng Có - Thể trong con người là một ý tưởng “rất cách mạng của đạo Thiền”, đặc biệt là thời Lý - Trần, một thời đại hoàng kim của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Điều đó chứng tỏ rằng những vị Thiền sư ngày ấy là những vị rất thâm hiểu giáo lý Phật-đà; họ đã đạt đến đỉnh cao của cảnh giới vô vi, giới luật không còn là những hình thức sáo mòn phiền tạp. Tại đây, “hiển hiện ánh Chơn như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn” - (Thập mục ngưu đồ, Tuệ Sỹ).

Cái học, cái tu của họ đã “bốc hơi” rồi, thì đối với họ nào còn cá tính độc lập (không), nào còn để nhận biết (vô tướng), và nào còn theo đuổi và bám víu (vô tác). Thông đạt ba phạm trù đó, các thiền sư tự tại đi vào dòng giải thoát. Và sau khi chứng ngộ, có đôi chân vững chãi, với tâm từ bi vô lượng các Ngài lại trở về trần gian, hóa hiện muôn hình để thực hiện hoài bão: “Dẫu xây chín đợt phù đồ, sao bằng làm phúc cứu cho một người.” Đó chính là mục đích cơ bản của người xuất thế, như đức Nhiên Đăng ngày ấy chẳng hạn. Đó đâu phải là “cảm tính và nguyện vọng con người được bộc lộ cơ hồ át mất phần lý tính của tôn giáo” như có người đã nhận định.

Đến đây, mỗi độc giả có thể tự thẩm định lại những đánh giá của một số học giả đã được trích dẫn trên.

Phước Tâm.(Hết)
[Tập san Pháp Luân - số 6]