Viếng mộ cuối năm

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Cứ mỗi khi trời trở chứng, gió phơn phớt thổi làm phảng phất ít khói hương là tôi lại nhớ đến những ngày giáp Tết, cái mùi khói ấy cứ phảng phất trong buổi chiều tất niên ở bên bãi tha ma của làng. Năm nào cũng thế, tôi đợi đến chiều cuối cùng của năm cũ để được đi viếng mộ tổ tiên, họ hàng, chú bác đã khuất, thế nhưng năm nay thì đành lỗi hẹn, sự xa cách càng làm cho con người ta cảm thấy nhớ quê nhà hơn bao giờ hết.


Làng tôi là một quê nghèo Quảng Trị, nghèo đến nỗi không có một dòng sông để tuổi thơ những đứa bé tôi ngày ấy bơi lội. Tháng hai giáp hạt, tháng ba túng quẫn, bồ thóc vơi hết những hạt cuối cùng, rồi cũng sắn khoai biết độn. Những ngày xưa ấy qua rồi, làng giờ khá giả lên nhiều nhưng hễ cứ có mùi khói là tôi lại thương thuở ấu thơ. Chính vì nghèo mà người ta biết sống với nhau bằng thứ tình cảm chân thật như đất. Người quê tôi hiền lành như củ khoai, trắng trong như củ sắn, tâm hồn thơm vị nước chè gừng và đối xử với nhau mặn mà như muối tháng tám. Ông nội hay dạy những câu ca dao tục ngữ cho đàn cháu nhỏ, chiều tất niên bao giờ ông cũng bảo “đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” và ông đưa miếng trầu vào miệng sau khi đã quệt lên đó ít vôi trắng sau lễ cúng rước ông bà về nhà ăn Tết. Ông dạy, đầu năm đi chợ mua muối để mặn mà tình nghĩa cả năm, còn vôi trong ngày ba mươi thì ý nghĩa ngược lại. Tôi lớn lên như thế! Những lời dạy của ông nội cứ thấm sâu vào máu thịt nên tâm hồn sớm biết yêu quê hương làng nước.

Năm ấy còn rất nhỏ, sau bữa cơm cúng tất niên, ông nội dắt tôi xuống bãi tha ma của làng mà hay gọi là Cồn Mai để thắp hương. Ông dẫn tôi đi từ đầu cồn đến cuối cồn, tay cầm bó hương đã thắp sẵn, cứ đến một ngôi mộ là ông lại kể lai lịch của người quá cố và nhủ tôi thắp lên đó một nén hương. Tôi hỏi sao lại thắp mấy ngôi mộ không phải của nhà mình, ông cười dạy rằng “người sống có bà con làng xóm thì người chết cũng có láng giềng, mình phải thắp cho người xung quanh mới ấm tình làng nghĩa xóm”. Thế sao không đi thắp cho tất cả các ngôi mộ? Ông xoa đầu “nhiều thế thắp sao xuể, vả lại cuối năm ai cũng đi thắp hương nên ngôi nào cũng có một nén rồi”. Trời chập choạng tối thì hai ông cháu mới thắp xong. Khi đi về, nhìn thấy những ngôi mộ không có bia ghi tên và lạnh lùng không hề có một nén hương, tự dưng tôi chảy nước mắt. Vậy là năm sau phải cầm đi thật nhiều hương để thắp cho những ngôi mộ vô chủ.

Nhà tôi theo đạo Phật, chính vì thế mà khói hương luôn luôn phảng phất suốt những ngày Tết hay cả ngày thường cũng thế. Ông dạy: “Phật ba, ma một”, nghĩa là thắp lên bàn thờ Phật thì phải ba cây còn các bàn thờ linh thì chỉ một. Tôi không hiểu vì sao lại như thế nhưng cứ nghe ông nội nói thì làm theo. Ông nội là người đức độ và có vốn văn hóa dân tộc sâu rộng nên những gì ông dạy thì tôi không bao giờ dám làm khác.

Đi thắp hương với ông nội nhiều, thành ra tôi thuộc hết địa điểm của những ngôi mộ tổ tiên họ hàng thân thuộc. Vậy là những năm sau ông để tôi đi một mình. Tôi lại muốn làm một ông cụ non nên dắt thêm mấy đứa em nhỏ, rồi lại chỉ trỏ như những năm trước ông nội từng chỉ cho tôi. Mấy đứa em nhỏ cứ tranh nhau thắp hương rồi cũng lại nhẩm thầm những cái tên khắc trên bia đá. Nhớ là chỉ nhẩm thầm thôi chứ không nên đọc ra vì người quê kiêng kị nhất là nhắc lại tên người đã mất.

Làn khói hương cuối năm là làn khói đưa ta về với cội nguồn dân tộc, nhắc nhủ ta nhớ về những người đã khuất. Nén hương ấy còn gọi là nén tri ân công đức tiên tổ mà cái lễ nghĩa ngàn đời của người Việt ta luôn luôn được coi trọng. Nếp nhà có vững cũng nhờ một phần vào cái lễ nghi được lưu giữ. Đi giữa những bông cỏ may chiều cuối năm, trong cái se se trở mùa chợt vang lại đâu đây lời khấn nguyện của người làng đi viếng mộ, mình cũng muốn ước một điều gì đó. Cỏ may vương lấm lết bũng quần đứa trẻ lên chín, tôi ngày ấy, khói thì quyện vào mắt làm xao xuyến và trên bờ mi như ươn ướt – niềm xúc động đầu đời của tôi có từ khi đó chứ không phải như người ta vẫn nói là đến lúc biết yêu.

Chú tôi mất, Tết năm ấy cả nhà buồn vì chú ra đi vào những ngày cuối năm, cỏ trên mộ vẫn còn xanh những màu non. Khi nén hương xông lên thì những ngọn cỏ non ấy trông buồn lắm! Và tôi thấy thương cho thím, thương cho những đứa em đang còn thơ dại như ngọn cỏ, nước mắt tôi cứ chực trào ra. Còn nhớ những ngày sau khi chôn cất chú, mệ nội tôi cứ xuống cồn mà ngồi suốt cả ngày, chạng vạng hoàng hôn mới trở về nhà. Nghĩ, nghĩa tử là nghĩa tận, sao mà thương quá!

Từ dạo đó, trong tôi bỗng thèm được đi viếng mộ, để mà được nhìn những nấm mồ, được thắp lên chút ấm áp cho người đã khuất. Tôi có những đứa bạn ở làng chết bất đắc kì tử vì tai nạn... Chúng nằm dưới ba thước đất, bãi tha ma làng ngày xưa bọn trẻ con hay cùng nhau thả diều hái quả dại ăn, giờ là nơi bạn tôi yên nghỉ mãi mãi. Nhiều khi đứng trước mộ bạn, lâu lâu như nghe được nó đang hiện lên tâm sự, rồi nó kéo mình ở lại thêm tí nữa, vậy là tôi ngồi xuống đất, bứt ngọn cỏ nghĩ vẩn vơ và hoài niệm về một thuở ấu thơ.

Hoàng hôn buông xuống, những tia nắng cuối cùng của năm đã khéo tắt, tôi trở về nhà chuẩn bị đón giao thừa. Quanh đây nghe còn âm điệu những bước chân người đi viếng vừa về, cả những làn khói thơm đang lặng lẽ xông lên mùi thơm cổ kính. Ấy là buổi chiều thiêng liêng nhất trong năm.

Xa làng rồi, năm nay không thể về quê ăn Tết, những đứa em tôi đã lớn khôn chắc đủ nhận thức để làm tiếp cái việc mà anh chúng đã nhắc nhở từ tất niên năm trước. Tôi chợt thấy se se lòng, rưng rức mắt vì làn khói hương ngày xưa.

Hoàng Công Danh
[Tập san Pháp Luân - số 47, tr.84, 2007]