Vị trí nữ giới trong Phật giáo

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Ngày nay, vai trò nữ giới trong xã hội là vấn đề thế giới đang quan tâm. Vì thế, chúng ta hãy thử tìm hiểu sơ về nó theo quan điểm của Phật giáo. Trước đây, có một số sách viết về địa vị nữ giới thay đổi trong xã hội Ấn giáo và Hồi giáo, nhưng vấn đề nữ giới trong Phật giáo rất ít được quan tâm, ngoại trừ quyển sách Nữ giới trong Phật giáo nguyên thủy của cô I. B. Horner, một học giả uyên bác tiếng Pali, ấn hành từ năm 1930.

Nhưng thực tế ngoài xã hội không bao giờ đi đôi với triết lý. Tư tưởng bình quyền của Phật giáo cũng bị bất lực trước sức mạnh của thể chế trọng nam trên toàn thế giới. Cả đến thuyết Luân hồi và Tái sanh, một trong những giáo chỉ thiết yếu nhất của đạo Phật, cũng bị đưa ra chứng minh rằng nam giới vẫn được trọng vọng hơn. Qua thuyết Luân hồi, những nghiệp tạo tác đời trước sẽ định đoạt số mệnh, giàu sang, địa vị, tài năng, và cả giới tính của một người cho những kiếp sau. Tái sanh làm người nữ tức là kiếp trước nghiệp nhân không được tốt, như thế chính tôn giáo đã hạ thấp tầm quan trọng của nữ giới. Khi làm điều lành nào đó, người phụ nữ Sri Lanka vẫn ngầm hồi hướng công đức và cầu thoát khỏi được thân người nữ và trở lại làm người nam trong kiếp sau. Cho dù Miến Điện được coi như là quốc gia có quyền bình đẳng nhất trong các giới, hầu hết phụ nữ sau thời khóa tụng kinh thường tha thiết cầu nguyện: “Con nguyện sẽ chuyển thành thân nam khi tái sanh làm người”. Và ngay tại Thái Lan, năm 1399 sau công nguyên, mẫu hậu của nhà vua thời bấy giờ thiết lập một Ni viện và để kỷ niệm công đức bà đã cho khắc hàng chữ: “Nhờ công đức lành này, xin cho tôi được mang thân nam khi tái sanh”.

Chúng tôi có thể thu thập rất nhiều thí dụ, những câu nói thông thường hay châm ngôn thi ca của cả ba quốc gia này để chứng minh rằng, cho dù được bình đẳng, người phụ nữ bao giờ cũng chấp nhận vị trí thấp kém hơn, và điều này ảnh hưởng ít nhiều đến mối liên hệ vợ chồng của cả ba xã hội nói trên. Tại Sri Lanka, ý tưởng này khó có thể nhận ra vì, thậm chí ngày nay, người ta vẫn giữ cái bình phong nguời chồng làm chủ gia đình. Quyền hành của người vợ không lộ liễu và rất tế nhị. Trong khi đó thái độ hơi mâu thuẫn này có phần rõ rệt hơn ở Miến Điện; người phụ nữ Miến Điện điều khiển quản lý tất cả kinh tế gia đình; họ bình quyền với phái nam cả về giao dịch, luật pháp và chính trị. Nhưng người vợ luôn chiều theo ý chồng, không phải vì uy thế cao của nam nhân, nhưng là một cách thích nghi với tiêu chuẩn văn hóa tập quán của xã hội. Ngoài ra tại Miến Điện, phái nam có quyền đa thê (polygamy) trong khi phụ nữ chỉ chính chuyên một chồng, như thế đàn ông cũng hưởng nhiều đặc ân hơn. Sri Lanka thì ngược lại, đa thê không có chỗ đứng trong xã hội chỉ trừ bậc hoàng gia vua chúa, trong khi đa phu (polyandry) - cho dù không còn thịnh hành cho lắm - vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay. Còn bên truyền thống Thái Lan, luật pháp quy định người phụ nữ hoàn toàn lệ thuộc chồng. Cho đến năm 1935, đàn ông vẫn có quyền lấy nhiều vợ một lúc: “Nguyên tắc cơ bản của luật gia đình bao gồm trong Bộ Luật 1805 có nhắc đến thế quyền của người chồng, ông ta giữ và quản lý tất cả tài sản chung, ông cũng có quyền bán vợ cho người khác, và thẳng tay trừng trị vợ nếu vợ phạm lỗi”.

Từ bản chất của giao ước hôn nhân đưa đến câu hỏi kế tiếp là cả hai đương sự có quyền hành gì trong việc hủy bỏ hôn nhân này. Hầu hết trong mọi nền văn hóa, người phụ nữ một khi lấy chồng là trực thuộc người chồng không bao giờ tháo gỡ hủy bỏ được, trong khi người đàn ông có quyền rũ bỏ tất cả những ràng buộc gia đình một cách dễ dàng. Bộ luật của Khổng Tử cho phép người chồng có rất nhiều lý do để bỏ vợ. Từ bệnh hoạn cùi hủi, bất lực không sinh sản được, cho đến bất tuân không khâm phục chồng, hay nói  lời không dịu dàng đoan chánh cũng có thể là những chứng cớ chính đáng để ly dị. Trong Ấn Độ giáo người vợ cho dù thế nào đi nữa cũng không được bỏ chồng, nhưng người chồng có quyền cưới vợ khác theo ý thích. Thần Manu dạy rằng: “Nếu người vợ 8 năm mà không có con, hay 10 năm mà con cái không sống được, hay 11 năm mà chỉ sanh con gái thì được quyền thay thế. Nếu người vợ hay cãi vã bất tuân phục chồng phải được thay thế ngay lập tức”. Ngoài ra ông chồng cũng có thể bỏ vợ nếu nàng bịnh hoạn, què quặt và không còn tiết trinh. Trong khi đó Hồi giáo cho phép người chồng bỏ vợ lúc nào cũng được không cần tòa án xét xử và cũng chẳng cần lý do. Nhưng người vợ không bao giờ có quyền ly dị chồng nếu chồng không cho phép; nếu chồng muốn ly dị thì hẳn nhiên, giao kèo hôn nhân đó bị hủy diệt.

Đạo Phật trái lại không thừa nhận hôn nhân là một khế ước linh thiêng tôn giáo, và vì không có luật lệ riêng cho việc kết hợp vợ chồng như trong Bộ Luật của Manu, hay Luật Sharia của Hồi giáo, nên sự hủy bỏ hôn nhân chỉ do đương sự hay gia đình của họ định đoạt. Tại nước Sri Lanka, chúng tôi tìm thấy một văn kiện năm 1769 trong đó quan niệm chính thống dựa theo luật pháp được trưng ra. Những người Hà Lan lúc bấy giờ đang thống lãnh vùng bờ biển hải cảng Sri Lanka. Thống đốc Hà Lan là Ngài I. W. Falck; vì muốn hiểu rõ luật lệ và phong tục tập quán của dân bản xứ nên đã ghi chép thành bộ luật địa phương và ông cũng đã gởi một số câu hỏi đến cho nhiều vị cao tăng thạc đức vùng Kandy để thăm hỏi ý kiến. Câu trả lời của các vị được đúc kết thành văn kiện luật pháp tên là Lakrajalosirita.

Một trong những câu hỏi là người Sri Lanka có được phép ly dị không? Dưới đây là câu trả lời: “Một người nam và một người nữ khi đã ký kết hôn nhân thành vợ chồng dưới sự chấp thuận của cha mẹ dòng họ đôi bên và theo luật pháp quốc gia, không có quyền tự ý hủy bỏ hôn nhân này chỉ vì không còn thích hợp với nhau. Người chồng muốn được ly dị vợ phải có đầy đủ bằng chứng là vợ không còn có sự trọng kính xứng đáng cho chồng, vợ chửi rủa mắng nhiếc đối xử tệ với chồng, vợ ngoại tình yêu thương người khác hay đem tiền của của gia đình cho tình nhân… nếu chứng minh được những điều sai quấy này trước tòa án dân sự, ông có quyền bỏ vợ”.

Câu hỏi kế tiếp là phụ nữ có quyền ly dị chồng không, và ông chồng phải phạm những lỗi lầm trầm trọng gì để vợ phải bỏ? Quý ngài trả lời: “Nếu ông chồng không còn thương yêu vợ, không lo lắng cho vợ ăn mặc những quần áo và nữ trang hợp với giai cấp của nàng, không cung cấp đầy đủ cho cuộc sống gia đình, không lo làm ăn bằng những nghề ngay thẳng chính trực như buôn bán, nông nghiệp, nếu chồng nghiện ngập, trộm cắp, lươn lẹo, khoác lác, làm nhục nhã hổ thẹn cho gia đình, nếu chồng đối xử tệ bạc với vợ mình trong khi tâng bốc nuông chiều những người đàn bà khác… khi người vợ có bằng cớ chứng minh những điều này trước pháp luật, nàng được quyền ly dị chồng”.

Điểm quan trọng phải được nhắc đến ở đây là trên lý thuyết luật Sri Lanka rất công bằng cho cả chồng và vợ. Và ta cũng thấy được ảnh hưởng của lời huấn thị của Phật trong kinh Thi-ca-la-việt (Sigalovada Sutra) về sự phát triển những quy chế này.

Tuy nhiên thời đó cũng như bây giờ, việc tòa án xét xử bao giờ cũng bị đình trệ và kéo dài thời gian, nên hầu như người Sri Lanka một khi hữu sự đều không đi đến pháp luật. Văn kiện Lakrajalosiritawas được viết bởi những tăng sĩ, một nhóm người ngoại quốc, phần nhiều những tiết mục trong đó được quy định một cách lý tưởng; cho nên chỉ những người giàu có mới đưa nhau ra tòa. Còn người thường dân hành xử một cách ít phức tạp và thực tế hơn, trong nhận xét của ông Robert Knox, người đã sống hòa đồng giữa nông dân nghèo hơn 19 năm: “Hôn nhân của họ rất đơn thuần, và mang ít giá trị pháp lý. Nếu họ không còn duyên  với nhau nữa, hay chán ghét nhau, họ chỉ giã từ đường ai nấy đi không làm tổn thương danh dự của ai. Nhưng phần đông điều này áp dụng cho đàn ông nhiều hơn đàn bà: ông không thích nữa ông bỏ đi thế thôi”.

Theo như luật pháp của người Sri Lanka thời bấy giờ, khi ly dị người vợ được hưởng quyền lợi khá hậu. Tất cả của hồi môn mà cha mẹ nàng cho lúc lấy chồng đều được trả lại, và gia tài chung có được sau ngày cưới được chia làm đôi. Người vợ còn được một số tiền để bảo đảm cuộc sống trong vòng 6 tháng. Trước phong trào du nhập của người Âu châu vào Sri Lanka, cả hai phái nam và nữ đều đồng quyền hành trong việc cưới hỏi và ly dị trên phương diện lý thuyết cũng như hành xử. Chỉ sau khi người Âu châu đến cai trị và thống lãnh đất nước, tình thế hơi đổi ngược vì có sự tác động mạnh của Cơ-đốc giáo và Hiến chương La mã của người Hà Lan được áp dụng trên lãnh thổ họ cai quản.

Truyền thống nước Miến Điện cũng thế, có luật dành riêng cho những hôn nhân không thành. Nếu cả hai đương sự đồng tình chịu ly thân vì không tương hợp nữa, họ có quyền bỏ nhau và chia đều của cải và con cái. Nếu một người không đồng ý, thì người muốn ly dị có quyền ra đi nhưng để lại tất cả của cải. Phụ nữ có thể xúc tiến thể thức xin ly dị nếu người chồng đánh đập vũ phu, hoặc không nuôi nấng lo liệu đầy đủ; và ông chồng có thể ly dị vợ nếu vợ bất lực không có con, hay vợ ngoại tình. Một cách nữa rất dễ dàng, cho dù hiếm khi xảy ra, là người bất đồng đang phiền toái có thể tìm đến cửa Phật xin đi tu. Một khi xuất gia, mọi cam kết trước đó đều được hủy bỏ hoàn toàn. Cách được ly dị và hủy bỏ hôn nhân dễ dàng như thế này ở Burma đã bị Giám mục Ki-tô giáo địa phận Rangoon, cha Bigandet lên án là “một tình trạng lỏng lẻo không nghiêm túc đáng bị đọa”. (Theo Thiên Chúa giáo hôn nhân là một bí tích thiêng liêng trước mặt Chúa, không thể tháo gỡ). Nhưng cho dù việc ly dị nhau có phần dễ dãi ở Miến Điện, người ta cũng quan sát nhận xét rằng vợ chồng gắng sức chịu đựng hơn, gia đình có vẻ êm ấm hơn, và những tranh chấp bất bình cãi lẫy cũng vơi đi không thường xảy ra.

Trong khi đó ở Thái Lan, cho dù người nữ bị bất lực trước pháp lý, họ vẫn có quyền đề xướng thủ tục ly dị để thoát ra khỏi môi trường bị hành hung đánh đập bởi người chồng vũ phu. Từ năm 1687 đã có bài viết của những thành viên người Pháp của sở Ngoại giao cho Hoàng gia Thái như sau: “Người chồng đương nhiên là chủ nhân của việc ly dị, nhưng thường là ông không từ chối, nếu vợ tuyệt đối muốn bỏ ông. Ông chấp thuận trả lại hết của hồi môn, và chia đều gia sản cũng như con cái trong vấn đề này…”. Cho dù người chồng có quyền hành tuyệt đối trong hôn nhân được quy định rõ ràng trong Bộ Luật 1805, nhưng người vợ vẫn có quyền đòi hỏi ly dị, và được đối xử rất rộng lượng khi hôn nhân được bãi bỏ.

Bây giờ chúng ta đi qua vấn đề những quả phụ và người đàn bà ly dị có được quyền lập gia đình trở lại hay không. Trong một vài xã hội thời bấy giờ như Ấn Độ, người vợ được xem như là sở hữu riêng tư của các ông chồng, cho nên có những tập tục người vợ bị chôn sống để làm  vật tế lễ thần linh khi chồng chết. “Soti puja” là một tập tục tự thiêu của những người đàn bà quả phụ có đẳng cấp cao của đạo Hindu. Tập tục này không được tìm thấy trong Bộ luật Rigveda, dĩ nhiên chỉ phát triển sau này với Bà-la-môn giáo, và không phổ biến lan rộng, chỉ thực hiện tại một vài nơi cô lập, mãi đến thời kỳ người Anh cai trị thì tập tục này được ngăn cấm. Mặc dù không thi hành được, các bà quả phụ Ấn giáo vẫn giữ một cuộc sống nghiêm khắc, hoàn toàn độc thân, và suốt đời thủy chung với người chồng quá cố. Ngoài ra, họ còn bị xem là xui xẻo, là điềm xấu, và thường bị khai trừ khỏi mọi hoạt động xã hội, tôn giáo và được xem như một người bất hạnh. Còn vấn đề người phụ nữ ly dị cũng không tài nào lập gia đình với một người khác trong đạo Hindu, vì cho dù bị chồng ruồng bỏ và ly dị trước pháp lý thế gian, họ vẫn trực thuộc ông ta nên cũng đành sống độc thân suốt đời.

Trong khi đó đạo Phật xem cái chết như là một điều tự nhiên không ai tránh khỏi được. Cho nên người nữ không cần phải chịu đựng sự hạ cấp đạo lý luân thường một khi chồng quá vãng. Địa vị xã hội của họ cũng chẳng bị ảnh hưởng, họ không phải phô trương thân phận góa bụa của mình bằng cách cạo đầu hay cởi bỏ nữ trang và trang phục đẹp; cũng không cần ăn chay hay nằm đất để hành xác hy sinh; vẫn có quyền tiếp tục giao du tham dự lễ lạy và các sinh hoạt thường ngày. Và hơn thế nữa, không có một luật lệ nào trong đạo Phật cấm cản người phụ nữ tái giá hay lập gia đình với người khác. Sự việc hiển nhiên này cũng được nhắc đến trong kinh điển nhà Phật.

Cũng vậy, người phụ nữ ly dị chồng cũng có quyền tiến bước thứ hai mà không phải mang một vết nhơ sĩ nhục nào cả. “…Nếu như họ không còn  hợp nhau và ly thân không sống chung nữa… thì người nữ đó vẫn có quyền tự do đi lấy chồng khác.” Cả văn kiện luân lý Lakrajalosirita, với cái nhìn chính thống Phật giáo, cũng cho phép người phụ nữ ly thân với chồng được quyền lập gia đình lần nữa. Sự việc này được nhìn nhận ở những cấp bậc cao hàng vua quan trong xã hội Sri Lanka. Cũng vây, ở Thái Lan và Miến Điện, người phụ nữ vẫn có thể tái giá sau lần ly dị chồng. Năm 1687 Ông La Loubere, một người Pháp trong phái đoàn ngoại giao ở Thái Lan đã nhận định trong thư viết: “Sau khi ra tòa ly dị, cả hai bên đều được  lập gia đình trở lại, người đàn bà này có thể làm lễ cưới ngay trong ngày ly dị của mình”.

Một lần nữa ta có thể nhìn nhận rằng đạo Phật đã cứu vãn tình thế cho người phụ nữ không còn phải mang sự sỉ nhục, tì vết nhơ bẩn; đã đưa người vợ bình đẳng hơn trong hôn nhân, và đã khôi phục bà quả phụ khỏi tầng lớp khốn khổ bất hạnh hèn hạ.

Cái tự do trong đời sống xã hội của phụ nữ ở những nước theo Phật giáo, nếu chẳng gì hơn, thì cũng đã làm chấn động những người phương Tây viếng thăm và sống tại nơi đây để họ phải thốt lên những lời ngỡ ngàng nhận xét khó tin mà chúng ta vừa bàn luận ở phần trên. Không phải chỉ sự bình đẳng ở địa vị thôi, mà là không có sự khác biệt giữa hai giới tính nam và nữ nữa. Đó mới là đặc điểm phân biệt nữ giới sống trong ảnh hưởng của Phật giáo và phái nữ dưới những chế độ khác khắp vùng Trung Đông, Đông Nam Á và lục địa Ấn Độ. Sự tách biệt phân ly giai cấp và giới tính đưa đến ẩn náu che đậy và giam hãm phụ nữ đằng sau những bức tường; đằng sau áo thụng và khăn vải che mặt. Bộ luật của Khổng Tử vạch rõ tư cách đạo đức đối xử giữa người khác phái với nhau. Luật của thần Manu còn đi xa hơn nữa về sự tách biệt giữa hai giới nam nữ đến nỗi mà người đàn ông không được ở bên cạnh một người nữ lâu dài, cho dù người đó là mẹ hay là chị của họ. Sự phân biệt giới tính tràn ngập hết mọi khía cạnh của xã hội theo đạo Hồi giáo.

Trong đạo Phật thuở ban đầu, mọi giới được tự do hoà lẫn nhau nghe Phật thuyết pháp. Cho dù tăng ni có nơi ở riêng biệt nhưng thường ngày vẫn sum vầy chung với nhau bên đức Phật. Kinh điển cũng có kể lại những cuộc đàm thoại dài giữa Phật và những nữ đệ tử của Ngài. Ngoài ra nữ thí chủ Visakha thường viếng thăm tịnh xá trong quần là áo lụa và nữ trang lộng lẫy, luôn luôn có một cận thần nam đi theo, bà đi khắp cùng tịnh xá lo việc cúng dường cho tăng đoàn. Quần áo thời trang của bà làm cho nhiều người khó chịu nhưng cả Phật và Tăng đoàn không cấm đoán hay chỉ trích. Chỉ sau khi bà sinh khởi tuệ giác, và phát nguyện xuất gia, bà mới tự bỏ đi đồ trang sức sang trọng quý giá đó.

Quyền tự do và thái độ hào phóng đã tác động mạnh đến cách cư xử của cả phái nam lẫn phái nữ trong những quốc gia theo Phật giáo. Ở Sri Lanka vào khoảng thế kỷ thứ XVII, “người đàn ông không cảm thấy ganh tị hay ghen tuông cho dù các mệnh phụ vẫn tự do trò chuyện với người khác phái ngay trước mặt”. Cũng có những nhận xét là người nữ được tự do viếng thăm những nơi thờ phượng trong quần áo và đồ trang sức đẹp và lộng lẫy nhất của họ. Đây cũng là một tập tục hoàn toàn khác biệt với luật Manu cấm ngặt phụ nữ không được trang hoàng diện mạo bằng tơ lụa và nữ trang, vì đó là những vật tính tà gian mà phụ nữ hay bị nó lôi cuốn; còn luật Koran cũng dạy tương tự là nữ trang và sắc đẹp phải được phủ kín đằng sau vải che mặt. Trong khi đó phụ nữ Miến Điện thong dong đi lại tự do không phải che đậy, với trang sức lộng lẫy, chưng diện màu mè cho tất cả những lễ hội. Bên cạnh họ, người phụ nữ Ấn Độ thuộc đạo Hồi thì phải mặc purdah (áo choàng đen hay nâu che khắp thân thể) và mang burqa (khăn che mặt), còn phụ nữ Trung Hoa phải chấp nhận tục bó chân. Tại Thái Lan, cho dù không bị ngăn cấm, nhưng phái nữ thuộc giới cao cấp, thường sống ẩn dật ít xuất hiện ra ngoài khuôn viên tư gia của họ.

Tóm lại, vì hôn nhân được xem như hoàn toàn thế tục, vì quyền hạn ly dị dễ dàng không bị ngăn cấm, vì quyền lợi được tái giá, vì nam nữ bình quyền, và trên hết vì người phụ nữ được tự do trong mọi mặt, nhất là vấn đề sở hữu của riêng, không phải có sự đồng ý hay ngăn cấm của chồng… tất cả những điều kiện kể trên đã giúp phục hồi giá trị của nữ giới trong những nền văn hóa thiên về đạo Phật. Đồng thời cái uy thế của nam giới vẫn được coi trọng toàn cầu, nên ảnh hưởng tích cực của đạo Phật cũng bị phủ định một phần nào, và sự việc cũng có phần hơi mâu thuẫn về mặt tư tưởng trong thái độ đối với phụ nữ. Tuy nhiên, vị trí của người phụ nữ vẫn được nâng cao và xem trọng hơn trong nền văn minh xã hội của các nước châu Á với đặc tính riêng biệt của Phật giáo.

Viên Minh dịch
Tập san Pháp Luân - số 75, tr77, 2010]