Tương quan giữa Du-già hành tông và Hoa nghiêm tông - Phần 2

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

(Tiếp theo TSPL.5)

II. NGHIỆP TƯỚNG (KARMALAKSANA)

Trích dẫn của ngài Trí Nghiễm từ Luận Đại thừa khởi tín cũng hơi khác với bản gốc, trong đó nói: “Vì do bất giác mà tâm động, nên gọi là nghiệp. Giác tức tâm không sinh khởi. Tâm động tức có khổ. Nên quả không hề rời nhân.”[13] Lối diễn đạt: “Một niệm vô minh là bất giác” dường như là sự thêm thắt của ngài Trí Nghiễm. Đoạn văn nầy trích từ một ngữ cảnh nơi tam tướng của bất giác được nói đến. “Sự khởi niệm được quy cho ý niệm nghiệp tướng hay vô minh nghiệp tướng, tướng đầu tiên trong tam tướng. Có nghĩa là sự hiện hành của nghiệp chướng, nghiệp tướng là  khái niệm quan trọng trong Luận Đại thừa khởi tín. Tuy nhiên, chúng ta không rõ bằng cách nào mà ngài Trí Nghiễm khảo sát khái niệm như trên vì hai tác phẩm luận giải của ngài về Luận Đại thừa khởi tín có nhan đề  Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký và Luận Đại thừa khởi tín luận sớ đã bị thất lạc. Nhưng thuật ngữ nghiệp tướng lại được xuất hiện trong một trích dẫn của ngài từ Kinh Lăng-già, có đoạn:

‘Chẳng phải do chân tướng của thức diệt, mà chỉ nghiệp tướng diệt. Nếu chân tướng của thức diệt, thì tạng thức sẽ diệt. Này Đại Huệ, nếu tạng thức diệt, thì chẳng khác gì luận thuyết đoạn kiến cúa ngoại đạo.’[14]

Trong bản tiếng Sanskrit  Kinh Lăng-già, chúng ta thấy đoạn trích dẫn của ngài Trí Nghiễm như sau:

tasmān mahāmate na svajātilakṣaṇa nirodho vijñānāṃ  kiṃtu karmalakṣaṇa nirodhaḥ/ svajilakaṣaṇe punar nirudhyamāna  ālayavijñāna nirodhaḥsyāt/ ālayavijñāne punar nirūpyamāṇe nirviśiṣṭas tīrthakaro ‘cchedavādena āyaṃvādaḥ  syāt //[15]

So sánh với bản tiếng Sanskrit, tôi nhận thấy bản dịch của ngài Cầu-na-bạt-đà-la,[16] do ngài Trí Nghiễm dịch, thực sự sai lầm khi nói: “Chẳng phải chân tướng thức diệt” Vì đúng ra phải như trong bản dịch của ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda 實叉難陀) là “Chân tướng thức không diệt.” (na svajātilakṣaṇa nirodho vijñānāṃ)[17] Quan điểm nầy được bổ sung bởi đoạn  khác trong Kinh Lăng-già:

‘Thức phát sinh ba tướng: chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng.[18]

Ở đây thức được phân thành ba tướng, có nghĩa là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng. Nên nhiều khi có  ý cho rằng một tướng trạng nào đó của thức diệt thay vì hiện tướng của thức diệt, Theo một cách nào đó, chúng ta chắc chắn rằng  nghiệp tướng là được dịch từ  karmalakṣaṇa, nhưng trong Phật Quang  Đại Từ Điển  thì đồng nhất thuật ngữ nầy với karmajātilakṣaṇa, vốn chỉ xuất hiện một lần trong Kinh Lăng-già:

Karmajātilakṣaṇa suvinibadha rūpasvabhāva anava-dhāriṇo mahāmate pañca vijñānakāyāḥ pravartante //[19]

Karmajātilakṣaṇa  ở đây rõ ràng là từ ghép của karmalakṣaṇa (nghiệp tướng 業 相) và jātilakṣaṇa (chân tướng 眞相, chủng loại  種 類, tánh 姓; tib: rig-kyi-mtshan). Thế nên đoạn văn trên được dịch như sau: Nghiệp tướng và chân tướng liên quan chặt chẽ với nhau. Do không nhận ra tự tánh của các pháp, nên Đại Huệ, năm thức trở nên có tác dụng.”[20]

Có sự đồng nhất nghiệp tướng với karmajātilakṣaṇa trong tiếng Sanskrit và với las gyi  mtshaning trong tiếng Tây Tạng, không còn sự khám phá nào hơn nữa về khái niệm nầy trong Kinh Lăng-già ngoại trừ trích dẫn vừa được nêu trên.[21] Trong hầu hết các trường hợp mà tôi đã nghiên cứu, thuật ngữ nghiệp tướng hay karmajātilakṣaṇa  đơn giản chỉ có nghĩa là  lực dụng hiện hành hoặc là hành vi, việc làm. Chẳng hạn, trong Nhiếp Đại thừa luận (s: Mahāyāna-saṃgraha 攝大乘論) của ngài Vô Trước, đã dùng nghiệp tướng như là một trong sáu tướng của Đức Phật. Trong bản dịch Quyết định tạng luận của ngài Chân Đế, nghiệp tướng là một trong sáu tướng của các pháp.[22] Trong trường hợp nầy, nghiệp tướng không phải là thuật ngữ được dùng trong ý nghĩa chuyên môn để chỉ cho một tướng trạng nào đó của thức.

Bản văn khác dùng thuật ngữ nghiệp tướng hoặc karmalakṣaṇa  trong cùng một ý nghĩa chuyên môn là Luận Đại thừa khởi tín, một trong những luận giải có ảnh hưởng mạnh nhất trong Phật giáo Trung Hoa. Luận nầy đã hình thành phương pháp tư tưởng cho ba tông phái chính Phật giáo Trung Hoa. Nguồn gốc tác phẩm nầy được tranh luận sôi nổi trong giới học giả từ đầu thế kỷ thứ XX. Đa phần học giả còn  tồn nghi khi gán cho ngài Mã Minh (Aśvaghosa) theo như truyền thống. Một vài ý kiến cho rằng tác phẩm đó là của ngài Chân Đế (Paramārtha–500-569), được xem là tác giả của bản dịch đầu tiên, hoặc là gán cho ngài Đàm Thiên (曇 遷 Tanqian; 542-607), một Đại sư của Địa luận tông, hoặc là của ngài Đàm Diên (曇 延 Tanyan, 516-588)[23] một Đại sư của Tam luận tông. Dù có nhiều ý kiến  khác nhau về tác giả của bộ luận nầy, nhưng nhiều học giả đồng ý rằng việc biên soạn phần lớn đã dựa vào bản dịch tiếng Hán của Kinh Lăng-già. Chẳng hạn, Lữ Trừng[24]  cho rằng sự biên soạn bộ luận nầy đặc biệt đã dựa vào bản dịch của ngài Bồ-đề Lưu-chi, điều mà, theo ý ông ta, nghèo nàn về phẩm lượng và có nhiều quan điểm ‘sai lầm’ trong Luận Đại thừa khởi tín xuất phát từ bản dịch nầy.[25] Việc thường xuyên dùng thuật ngữ karmalakṣaṇa  trong  hai tác phẩm nầy dường như đưa ra một chứng cứ mạnh mẽ về quan điểm trên.

Trong Luận Đại thừa khởi tín, thuật ngữ nghiệp tướng– karmalakṣaṇa là tướng đầu tiên trong ba tướng của bất giác. Bất giác đại biểu cho tâm nhiễm ô, bất khả phân ly với tâm thanh tịnh hay tâm giác ngộ. Như trong luận nói: “Nếu lìa tánh giác, do có tâm bất giác vọng tưởng, nên mới biết danh nghĩa để nói đến chân giác. Nếu rời tâm bất giác, thì chẳng có thể nói được tự tướng của chân giác.”[26] Cả giác và bất giác, quan hệ chặt chẽ bất khả phân ly, tạo thành  cơ cấu hoàn chỉnh cho A-lại-da thức .

Ba tướng của bất giác là nghiệp tướng, hiện tướng[27] và cảnh giới tướng. ba tướng nầy không giống như ba tướng trong Kinh Lăng-già. Chúng ta biết nghiệp tướng là  karmalakṣaṇa, sau đây tôi sẽ trình bày chuyển tướng được đồng nhất với hiện tướng. Nhưng chân tướng không thể là cảnh giới tướng, vì chân tướng là nói đến chân tánh của tâm, còn cảnh giới tướng là thế giới khách quan. Hơn nữa, trong  Luận Đại thừa khởi tín, ba tướng nầy là thuộc về tâm nhiễm ô, nhưng trong Kinh Lăng-già, ba tướng nầy bao hàm cả tâm thanh tịnh lẫn tâm nhiễm ô.

Nghiệp tướng, hay vô minh nghiệp tướng, là tướng đầu tiên của bất giác. Được  gọi là nghiệp vì ban đầu, tâm sinh khởi ở  giai đoạn nầy. Sự sinh khởi của tâm là cảnh giới ban sơ của tâm hay thức, chỉ là nhận thức về chính nó, vì chưa có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng. Đó cũng chính là nguyên nhân của khổ đau ở giai đoạn sau. Trong tướng thứ hai, hiện tướng, chủ thể nhận thức bắt đầu thành hình. Cũng được gọi là chuyển tướng vì nó chuyển nghiệp tướng thành chủ thể. Đây là sự thay đổi Tự chứng[28] thành thức tâm (phân biệt), nhưng không phải là nhận thức về một cái gì cả. Trong tướng thứ ba, đối tượng phát triển từ thức. Vì đối tượng phát triển từ thức tâm, nên các hiện tượng được xem là hư vọng. Như trong luận nói: “Do nương vào năng kiến nên có cảnh giới hư vọng hiện bày, nếu rời cái thấy nầy, thì chẳng có cảnh giới.”[29] Tướng thứ ba còn được gọi là cảnh giới tướng, hay hiện tướng, vì trong giai đoạn nầy, cảnh giới, đối tượng được trình hiện.

Ba tướng nầy, là  lực hoạt dụng ban đầu của tâm, được gọi là Tam tế. Nó được phát sinh thêm sáu tướng khác, gọi là Lục thô. Đó là:

1. Trí tướng: phân biệt cái thích và không thích.
2. Tương tục tướng: duy trì ý tưởng hài lòng cũng như không hài lòng trong một tiến trình liên tục từ chủ thể nhận thức.
3. Chấp thủ tướng: Giữ chặt sự phân biệt thích và không thích.
4. Kế danh tự tướng: phân tích ngôn từ vốn là giả lập.
5. Khởi nghiệp tướng: phát khởi vô số nghiệp.
6. Nghiệp hệ khổ tướng: khổ ràng buộc tương quan nhân qủa với nghiệp đã tạo.

Tam tế và Lục thô gom thành chín tướng của Bất giác, trong đó, lại là một phạm trù của A-lại-da thức. Trong Luận Đại thừa khởi tín, A-lại-da thức còn được gọi là Tâm, nơi mà Ý (意)–Mạt-na (Manas) sinh khởi.  Manas có năm tên gọi khác nhau:

1. Nghiệp thức: trong ý nghĩa thông qua tác dụng của vô minh mà tâm bất giác bắt đầu sinh khởi.
2. Chuyển thức: với ý nghĩa khi tâm sinh khởi, là có sự liên quan đến khía cạnh chủ thể nhận thức (kiến phần).
3. Hiện thức: trong ý nghĩa biểu tượng cho thế giới khách quan như là tấm gương trong phản chiếu lại toàn bộ hình ảnh pháp giới.
4. Ý thức: phân biệt giữa nhiễm ô  cũng như thanh tịnh.
Tương tục thức: với ý nghĩa tâm thức bị ràng buộc trong ký ức và tương tục không gián đoạn.
5. Tên gọi thứ năm của Mạt-na còn được gọi theo lý thuyết là Ý thức (Manovijñāna), như đã được định nghĩa trong Luận Đại thừa khởi tín:

‘Lại nữa, gọi Ý thức (Manovijñāna) tức  là Tương tục thức, vì tính chấp trước  thâm sâu, hàng phàm phu xem chúng là Ngã và Ngã sở (là thực) , tất cả vọng chấp ấy đều theo cảnh giới mà  phan duyên. [Thức nầy] phân biệt lục thô nên gọi là Ý thức, cũng gọi là Phân ly thức, còn có tên là Phân biệt sự thức. Thức nầy do nương vào kiến ái phiền não mà tăng trưởng nên có danh nghĩa như vậy.[30]

Cơ cấu Tâm (citta)–Ý (manas)–Ý thức (manovijñāna) trong Luận Đại thừa khởi tín có thể phần nào đồng nhất với giáo lý Duy thức về tám thức. Tâm, như được gọi là A-lại-da thức, thì tương đương với A-lại-da thức . Khác nhau là ở điểm, Tâm (citta) có cả hai  phương diện thanh tịnh và nhiễm ô, còn A-lại-da thức chỉ có một  phương diện là nhiễm ô. Cả hai đều chấp vào Ngã và Ngã sở (là thực). Ý thức (manovijñāna) rất giống với thức thứ bảy, còn được gọi là Ý(manas). Năm nghĩa của  manas  tương đương với  Ý thức (manovijñāna) tức thức thứ 6, nhưng  manas chắc chắn là rắc rối hơn.

Sự  phân tích trên cho chúng ta  thấy cặp phạm trù nhận thức–đối tượng nhận thức (noesis-noema) của các nhà Hiện tượng luận (Hurserlian)[31]. Nhưng chúng ta lưu ý rằng cấu trúc về tâm nầy không được xem như là Nhận thức luận trong Luận Đại thừa khởi tín, mà đúng hơn nó là một phần của sắp xếp có hệ thống của thuyết nguồn gốc vũ trụ giải thích cách hình thành pháp giới hư vọng. Đối với mục đích mang tính siêu hình học, hệ thống nầy được đảo ngược tiến trình từ thô đến tế. Phàm phu bị dính mắc vào Chấp thủ tướng, Kế danh tự tướng, Khởi nghiệp tướng và Nghiệp hệ khổ tướng. Hàng Bồ-tát  đều đang ở trong Trí tướng, Cảnh giới tướng, và Tương tục tướng. Còn chư Phật thì ở trong nghiệp tướng.[32] Vì ở quả vị Phật, nghiệp tướng không chỉ có ý nghĩa nhận thức luận, mà còn mang ý nghĩa tác dụng giải thóat như là một ý niệm cốt lõi trong hệ thống giáo lý của Luận Đại thừa khởi tín. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ thấy các ý niệm ấy phát triển  phức tạp vô cùng.
 
Chú thích:
[13] Dĩ y bất giác cố tâm động thuyết danh vi nghiệp. Giác tắc bất động, động tắc hữu khổ, quả bất li nhân cố.
[14] Xem T1870:545c-546a. và T670:483b.     
[15] Bunyiu Nanjio, The Lankāvatāra  Sūtra, (Kyoto: Otani University Press, 1923), pp. 38-39
[16] 求那跋陀羅 Gunabhadra;394~468. Ý dịch là Công Đức Hiền 功德賢. Các tác phẩm do ngài dịch gồm: Tạp  A-hàm kinh雜阿含經, Khai nguyên lục開元錄, Vô ưu vương kinh無憂王經, Đại pháp cổ kinh大法鼓經, Tương tục giải thoát kinh相續解脫經, Thăng man kinh sư tử hống nhất thừa đại phương quảng kinh勝鬘經師子吼一乘大方便方廣經, Lăng già kinh 楞伽經四卷(4 quyển), Tiểu Vô lượng thọ kinh小無量壽經, Quá khứ hiện tại nhân quả kinh過去現在因果.
[17] Thức chân tướng bất diệt– T672:593c.  Bản dịch  khác của ngài Bồ-đề Lưu-chi sai lầm khi bỏ sót chữ "na” (The other translation by Bodhiruci is wrong in omitting the "na”)
[18] trividha utpādo vijñānām  pravrttilaksanam  karmalaksanam  jātilaksanam  ca //
Bunyiu Nanjio, The Lankāvatāra  Sūtra, (Kyoto: Otani University Press, 1923), pp. 37.
[19] Ibid. p. 44
[20] D.T. Suzuki dịch karmajātilaksana là Hoạt dụng thức (functioning vijñāna) và Bản thức (original vijñāna). Xem  The Lankāvatāra  Sūtra, A Mahāyāna Text ,(London, 1932), p. 40–D.T. Suzuki. 
[21] Xem D.T. Suzuki, An Index to the Lankāvatāra (Kyoto: The Sanskrit Buddhist Texts Publishing Soceity, 1934), p..54
[22] Xem T1604:661c và  T1584:1032c
[23] Ý kiến cho rằng ngài Chân Đế là tác giả Luận Đại thừa khởi tín, xin xem tác phẩm của William Grosnick, "The Categories of   T'i, Hsiang, and Yung: Evidence that Parmārtha Composed the Awakening of Faith", trong Journal of the International Association of Buddhist Studies 12, 1989, 1:65-92.  Ngài Đàm Thiên là tác giả được đề cập trong trang  737.  Cuộc  thảo luận  về ngài Đàm Diên là tác giả, xem (Henan, 1995), pp. 161-183    
[24] 呂 澂 Lü Cheng; 1896-1989: Học giả Phật giáo Trung Hoa hiện đại, người  tỉnh Giang Tô. Biên soạn nhiều kinh luận Phật giáo, chú trọng giáo lý Trung quán và Duy thức. Ngoài ra còn soạn các bộ sử Phật giáo như Ấn Độ Phật giáo sử, Từ Ân Pháp sự truyện, Huyền Trang Tây vức hành lược đồ, Tây Tạng Phật học nguyên luận.
[25] Xem Beijing, 1995), pp. 194-201.  Lữ Trừng ( 呂 澂 Lü Cheng; chỉ ra 7 quan niệm sai lầm như vậy.
[26] T1666:577a. Được dịch hơi khác với bản của ngài Thật-xoa-nan-đà (Śikṣānanda 實叉難陀), bản mà Suzuki đã làm bản đáy để dịch. Trong khi Hakeda dựa vào bản dịch của ngài Chân Đế. Xem Asvaghosha's Discourse in the Awakening of Faith in the Mahāyāna của Teitaro Suzuki. Chicago, 1900; tái bản năm 1976) và The Awakening of Faith (New York & London) của Yoshito S. Hakeda.
[27] 現 相;  e: appearance of perceiving.
[28] 自 證 e:  self-consciousness.
[29] T1666:577a. Asvaghosha's Discourse in the Awakening of Faith in the Mahāyāna của D.T. Suzuki và, The Awakening of Faith  của Yoshito S. Hakeda. Trang 44.
[30] Xem T1666-57b.
[31] Edmund Husserl (1859-1938): triết gia người Đức, trong nhóm chủ trương Hiện tượng luận.  Ông sinh trưởng trong một gia đình Do thái giáo ở tỉnh Prossnitz thuộc Moravia, nhưng cha ông, vốn là thường gia buôn vải, đã có ý muốn gởi con mình đến Vienna vào lúc 10 tuổi để bắt đầu theo học với nền giáo dục cổ điển Đức. Sau khi thành đạt, Ông giảng dạy triết học tại Göttingen từ năm 1901 đến 1916, và dạy tại Freiburg im Breisgau từ 1916 đến 1928.
[32] Xem T1666:177c.

[Tập san Pháp Luân - số 6]