Công ơn đàn việt

Typography

Trên con đường cầu đạo giải thoát vô thượng Bồ đề, những người xuất gia lúc nào cũng ôm ấp một đại nguyện “trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ”.

Trong đó có công ơn của người đàn việt đã đắp xây cuộc sống hôm nay cho chúng ta mà không thể nào quên được. Vì thế trong kinh “Tứ ân” đức Phật đã dạy:

“Muốn tu học đạo mầu
Trước hết thân phải an
Từng bát cơm manh áo
Ân nghĩa đã muôn ngàn.

Ơn nhà nông cày cấy
Ơn người thợ dệt may
Ơn những ai xây đắp
Cuộc sống đẹp hôm nay.”

Cảm theo cái ý ấy, hằng ngày sau mỗi giờ quá đường vị chủ lễ thường phục nguyện:

“Thân phi nhất lũ thường tư chức nữ chi lao,
Nhật thực tam xan mỗi niệm nông phu chi khổ”.

Nghĩa là: Thân này khoác một manh áo đơn sơ nhưng thường nghĩ đến sự vất vả của người thợ dệt. Cơm ngày ăn ba bữa hằng nhớ đến sự khó khổ của kẻ nông phu.

Ý nghĩa của bài kệ ấy là nhằm để “nhắc nhở người xuất gia luôn luôn nhớ đến công ơn của người đàn việt”.    

I. Công ơn của người đàn việt:

Vật dụng người xuất gia tất cả điều không phải tự mình mà có được. Manh áo đơn sơ mặc trên người là do sự vất vả khó nhọc của người thợ dệt ngày đêm cặm cụi nên. Bát cơm đạm bạc là nhờ công lao cực khổ của người nông phu phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà có được. Cho đến thuốc thang, giường chõng, sách vở, giấy mực, cây kim, sợi chỉ v.v... điều do mồ hôi nước mắt, vất vả đắng cay của bao nhiêu người đem lại.

Người xuất gia hằng ngày được thọ hưởng những đồ ăn thức uống no đủ, mà đôi lúc còn có người đòi hỏi thêm, hay không vừa ý. Trong khi người đàn việt phải dãi dầu nắng mưa, gió bão lam lũ cả một đời nhiều lúc không đủ ăn, thế mà họ vẫn nhín một ít phần ăn của cả gia đình để cúng dường. Chúng ta không dệt vải vẫn có áo mặc dư dả mà không biết quý trọng, không biết mến tiếc, trong khi những người thợ dệt phải vất vả ngày đêm nhiều lúc vẫn không đủ mặc, vẫn chưa đủ ấm. Khi bệnh tật có người đem đến cho ta thuốc quý mong chữa lành bệnh đủ sức khỏe tu hành, trong khi họ không đủ tiền để mua thuốc, hay thậm chí không đủ tiền để chữa trị lành bệnh. Chúng ta mỗi người một giường, đôi khi trải nệm ấm đắp chăm êm, sống trong tự viện đầy đủ tiện nghi; còn có người đàn việt phải nằm đất chõng tre, sống trong mái nhà tranh mục nát. Lấy sự cực nhọc của người để cung phụng cho sự an lành của ta, vậy thì đối với chúng ta phải làm sao cho xứng đáng với công sức của họ! Cho nên đối với những công ơn của người đàn việt thì người đệ tử Phật với đầu tròn áo vuông làm sao có thể nào quên được?

II. Tầm quan trọng của sự cúng dường

Người đàn việt vì muốn vun trồng cội phúc, muốn thoát khỏi biển khổ nên nhịn phần ăn tiêu của gia đình mà đem vật thực đến cúng dường Tam bảo. Nhờ sự cúng dường đó mà người xuất gia không phải bận rộn lo toan về miếng ăn, cái mặc để có thời gian chuyên tâm vào việc nghiên cứu và tu tập, nhằm bảo vệ, giữ gìn và phát huy chân lý Phật đà, giúp cho Phật pháp hưng long và truyền bá khắp nơi, làm cho chánh pháp không bị suy tàn mà vĩnh viễn trường tồn trên thế gian này.

Nếu không có sự cúng dường của người đàn việt thì Tăng Ni không thể tu hành một cách an ổn, vì “có thực mới vực được đạo”. Câu nói tuy đơn giản nhưng không đơn giản tí nào. Không có sự hỗ trợ cúng dường của người đàn việt thì Tăng Ni sẽ không đủ điều kiện hoằng dương chánh pháp. Do đó, sẽ làm cho giáo pháp của đức Thế Tôn suy tàn và dần dần mai một.

Sự ủng hộ vật chất của người đàn việt, đã góp phần rất lớn trong sự nghiệp bảo vệ và giữ gìn ngôi nhà Phật pháp. Tăng Ni có đủ phương tiện tu học; sự hiểu biết, lòng vị tha được phát huy tốt, sẽ góp phần xua tan thù hận cho nhân gian. Dòng nước từ bi mát dịu trong lành sẽ là chất liệu xua tan những tâm hồn tràn đầy những tham vọng cuồng si. Do vậy, sự cúng dường của đàn việt có ý nghĩa rất lớn trong đời sống xuất gia nói riêng và trong sự trường tồn Tam bảo nói chung.

III. Lợi ích của sự cúng dường

Tam bảo là phước điền cho chúng sanh, vì nơi đó chúng sanh gieo một mà hưởng gấp trăm ngàn lần. Ví dụ như có khi vì lòng từ bi bố thí cho một người nào đó khi họ lỡ đường hoặc lúc đói khát, thì phước báo rất ít không bằng cúng dường cho người xuất gia. Vì người xuất gia sống một đời đạo đức, là tấm gương sáng cho mọi người, noi theo và tu tập mong đạt đến sự chứng ngộ để đem đến niềm an lạc cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được nhiều lợi ích.

Trong kinh Tứ thập nhị chương phần Bố thí độ, chương XI, đức Phật đã dạy rằng: “Cho một trăm người ác ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho một ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn, cho một muôn (10.000) người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu-đà-hoàn ăn; cúng dường trăm muôn (1.000.000) vị Tu-đà-hoàn ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tư-đà-hàm ăn; cúng dường cho một ngàn muôn (10.000.000) vị Tư-đà-hàm ăn; không bằng cúng dường cho một vị A-na-hàm ăn, cúng dường cho một ức (100.000) vị A-na-hàm ăn, không bằng cúng dường cho một vị A-la-hán ăn, cúng dường cho mười ức (1.000.000) vị A-la-hán ăn không bằng cúng dường cho vị Bích Chi Phật ăn; cúng dường cho một trăm ức (10.000.000) vị Bích Chi Phật ăn không bằng cúng dường cho một Tam thế chư Phật ăn; cúng dường cho một ngàn ức (100.000.000) Tam thế chư Phật ăn, không bằng cúng dường cho một vị Vô niệm Vô trụ Vô tu Vô chứng ăn.”

Đức Phật nói lên điều này để chứng tỏ rằng cúng dường cho một vị xuất gia thì phước báo rất vô lượng, mà nhất là các vị tu hành chân chính có giới hạnh, có đạo đức và có tâm chứng trong thiền định. Vì đó là một phước điền thật sự cho chúng sanh. Nếu có một người nào may mắn cúng dường cho Phật lúc Ngài còn tại thế thì phước báo của người ấy vô lượng vô biên không thể nói hết được. Chúng tôi nói điều này không phải để khuyên người đàn việt lựa người mà cúng, nhưng đó là sự sai biệt của công đức cúng dường.

Sự cúng dường Tam bảo có công đức rất lớn đối với người đàn việt. Trong đời hiện tại họ thực hành đúng thiện pháp, diệt trừ tâm bỏn xẻn nên tâm dần dần được an lạc. Trong vị lai, nó là cái nhân phước thiện để thoát khỏi cảnh khổ bần cùng, là hạnh căn bản trong các hạnh, để một ngày nào đó có thể bước lên quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, thoát khỏi vòng sanh tử khổ đau và trở thành một phước điền cho chúng sanh. Như bài kệ sau đây đức Phật đã nói với ông Cấp Cô Độc khi ông dâng cúng tinh xá Kỳ Viên cho Tăng đoàn:

“Hành pháp Phật ấy phước điền chân thật,
Gieo giống lành quả giải thoát về sau.

Hoa nở là khi tâm hết ra vào,
Trong tam giới đầy khổ đau sanh diệt”.

IV. Cúng dường như thế nào mới được lợi ích lớn?

Không phải tất cả việc cúng dường đều có phước báo như nhau mà nó có sự khác biệt nhiều ít. Phước báo tùy thuộc vào sự dụng tâm khi cúng dường của người đàn việt. Sự dụng tâm đó rất quan trọng để chúng ta biết phước báo nhận được nhiều hay ít, vô lậu hay hữu lậu. Đa phần người đàn việt đem vật thực đi cúng dường chỉ vì cầu sự bình an cho gia đình, sự thành đạt trong nghề nghiệp, sự may mắn trong mua bán v.v... Như vậy, phước báo tùy tâm ứng hiện, nhưng đó chỉ là phước hữu lậu, mà phàm cái gì hữu lậu thì không thể tồn tại lâu được. Vì tâm mong cầu vẫn là tâm ích kỷ, tham lam; mà khi ích kỷ tham lam có mặt thì đau khổ sẽ xuất hiện. Một ngày nào đó khi hưởng hết phước hữu lậu, chúng ta lại phải bị đọa lạc trong vòng sanh tử luân hồi.

Có người cúng dường rất nhiều nhưng trong lòng của họ xuất hiện tâm tự cao kín đáo và kiêu mạn ngày càng lớn mà không biết cách diệt trừ thì công đức sẽ bị hao tổn dần. Chỉ cần trong tâm khởi lên những điều bất thiện là công đức đã bị tổn, huống hồ là đem khoe khoang sự cúng dường nhiều ít để người khác nể trọng. Có người cúng dường rất hậu nhưng lại muốn người xuất gia phải chiều theo ý mình, đôi khi không vừa ý họ lại trở mặt nói xấu người xuất gia, làm cho đạo Phật càng suy yếu. Như vậy, quả báo về sau, phước thì vẫn hưởng nhưng tội vẫn phải gánh chịu.

Những điều nói trên là để rút ra bài học kinh nghiệm cho chính mình. Vậy thì cúng dường như thế nào mới có lợi ích lớn? Đàn việt khi đem vật thực đến cúng dường với tâm tôn kính Tam bảo, hộ trì Tam bảo, để quý thầy quý cô đủ điều kiện mà tu hành và giáo hóa chúng sanh quay về chánh đạo, làm tăng trưởng đạo đức của con người để con người sống tốt với nhau hơn giữa thế gian tối tăm này. Vả lại, người xuất gia đâu chỉ có miếng ăn cái mặc mà còn biết bao nhiêu chuyện phải làm; nào là phát huy chân lý Phật đà, dịch kinh ấn tống, việc từ thiện xã hội, việc tổ chức tu học cho Tăng, Ni, Phật tử v.v... cần nhiều tài chính mới có thể quyên góp làm cho được. Chỉ cần trong tâm đàn việt có ý nghĩ đó thôi, thì người này khi sinh ra đời thường được nghe chánh pháp, thường được gần gũi Tam bảo mà tu hành, có nhân lành để trở thành một vị thánh trong tương lai. Vì tâm tùy hỷ cúng dường và vị tha này có thể giúp đàn việt chấp cánh bay ra khỏi tam giới.

V. Thái độ của người xuất gia

Người xuất gia phải luôn biết ơn những tài vật của người đàn việt hiến cúng. Vì mỗi tấc vải, mỗi hạt cơm ân trọng như núi, đầy mồ hôi và nước mắt của đàn việt. Bằng những nỗi vất vả, lo toan, lam lũ quần quật suốt năm này qua tháng nọ để tìm ra manh áo chén cơm đem đến cúng dường, có khi họ phải tạo ra các nghiệp bất thiện dẫn đến sự tổn phước, tâm trí càng lu mờ vì mãi bon chen giữa dòng đời xuôi ngược. Khi đem vật thực đến cúng dường, họ còn dưng hai tay với lòng tôn kính thiết tha, thì ở đây thái độ của người xuất gia phải biết mến tiếc đối vối những vật thực cúng dường của họ, phải biết tôn trọng và yêu thương họ, vì họ cũng là một con người chịu nhiều đau khổ như bao nhiêu người khác, thân thuộc của chúng ta. Người xuất gia phải có tâm bình đẳng không nên phân biệt giàu hay nghèo, không nên chê bai tốt xấu hoặc nhiều hay ít khiến họ nghe được mà sanh lòng phiền não làm giảm tín tâm của họ đối với Phật pháp. Phải khéo léo dùng sự hiểu biết của mình hướng dẫn họ tu tập theo con đường Bát chánh và biết đem công đức cúng dường hồi hướng về quả vị giác ngộ vô thượng chớ đừng mong cầu phước báo ở cõi trời và cõi người. Vì vậy, mỗi người xuất gia cần phải biết ơn và tìm mọi cách để báo ơn người đàn việt, nếu không thì không xứng đáng là một người xuất gia chân chánh. Trong kinh “Biết ơn” đức Phật đã dạy:

“Nếu có chúng sanh nào
Biết ơn và đền ơn
Người này thật đáng kính
Ta luôn luôn tán thán.

Người nhớ ơn đền ơn
Người ấy dù xa ta
Đến trăm ngàn muôn dặm
Cũng không phải là xa
Vẫn gần ta bên cạnh.

Còn có chúng sanh nào
Không nhớ ơn đền ơn
Người ấy dù bên ta
Thân mặc y Ca sa
Vẫn xa ta ngàn dặm”.

Cho nên, người xuất gia đã từ bỏ gia đình, sống cuộc sống không gia đình, chỉ vì lý tưởng giác ngộ giải thoát mọi khổ đau sanh tử luân hồi, chớ không phải vì thức ăn ngon, y phục đẹp, sàng tọa tốt, dược phẩm quý v.v... mà sống trong giới và luật của Thế Tôn. Vì vậy, người xuất gia phải nghĩ đến vô thường mà ngày đêm sáu thời tu tập lời Phật dạy, hầu làm tấm gương sáng cho mọi người noi theo và phải có ý tưởng siêu việt mong cho ta cùng tất cả chúng sanh sớm vượt qua bến sanh tử đến bờ giác ngộ. Cho dù kiếp này không đắc đạo thì trong một kiếp nào đó khi chúng ta rống lên tiếng rống của con sư tử, “Ba minh ta chứng được, lời Phật dạy làm xong”, thì tất cả những người đã từng cúng dường cho ta một hạt gạo hay một bát cơm ở trong kiếp này vẫn được lợi ích rất lớn.

Vì lòng thương tưởng đến chúng sanh, vì muốn cho chúng sanh được an lạc, người xuất gia hãy chuyên cần tu tập để làm một ruộng phước cho chúng sanh gieo trồng. Hãy sống một đời thiểu dục, tri túc, giản dị để giữ hạnh thanh bần mà vui niềm vui đạo pháp; không đa cầu vì “các dục lạc của thế gian là vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm còn nhiều hơn”. Hãy nghĩ rằng: Khi ta mặc thêm một tấm áo đẹp là chúng sanh đang khổ cực thêm một chút nữa, khi ta ăn một bữa ăn ngon thì đàn việt càng vất vả hơn trăm ngàn lần. Cho nên chúng ta phải biết chế ngự thân tâm, chỉ cần có manh áo đơn sơ để che thân là đủ, chỉ cần có cơm ăn để giữ gìn tấm thân này mà làm phương tiện qua sông. Chúng ta phải lấy mục tiêu: “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” mà hướng đến chớ có dừng lại một mục tiêu nào khác.

Thế Tôn có dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Ngày nay chúng ta may mắn được làm thân người, lại xuất gia học đạo nghe được giáo pháp vi diệu của Thế Tôn để lại thì thật là điều đáng mừng. Bên cạnh đó chúng ta còn nhận được sự cung kính cúng dường của mọi người thì phải cố gắng tu hành chớ có ngủ quên trong sự hưởng thụ mà bỏ phí thời giờ trôi qua một cách vô ích theo các dục vọng của thế gian. Chúng ta phải nhớ đến lửa sanh tử ngày đêm thiêu đốt, lẽ vô thường không hẹn một ai mà tu hành cho có kết quả, để làm lợi ích cho chúng sanh và không để công ơn của người đàn việt trở thành vô nghĩa. Nếu không chuyên tâm tu tập thì không những đời này ta không được giải thoát mà muôn kiếp về sau còn phải chịu khổ đau trong biển khổ luân hồi và chỉ tiêu hao của đàn na tín thí. Đó là ta tự đào hố chôn ta chứ chẳng phải một người nào khác. Người xuất gia hãy tinh tấn tu tập vượt khỏi ba cõi sáu đường để làm một cội Bồ-đề rợp bóng mát che chở cho chúng sanh và là một đóa hoa sen tỏa hương thơm ngát, “tuy gần bùn mà vẫn không tanh mùi bùn”.

PN.
[Tập san Pháp Luân - số 1, tr.16]

BLOG COMMENTS POWERED BY DISQUS

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.