Đường về hạnh phúc

Typography

Con đường đưa đến đời sống an lạc và hạnh phúc có muôn lối ngàn nẻo,

Con đường đưa đến đời sống an lạc và hạnh phúc có muôn lối ngàn nẻo, mỗi chúng ta có thể chọn cho mình một pháp môn thích hợp để có được giá trị đích thực cho cuộc sống. Cái gần gũi với đời sống chúng ta nhất là hơi thở. Nó là đối tượng mà chúng ta dễ có điều kiện để tiếp xúc. Nhưng thực ra, trong mỗi chúng ta, mấy ai đã tiếp xúc với hơi thở, và mấy khi chúng ta trở về với hơi thở trong chính ta. Trở về với hơi thở của chính ta như thế há không phải là một bước thành công lớn của sự thực tập hay sao?

Hơi thở là cái bình thường nhất, và cũng là mầu nhiệm nhất. Nó cùng với trái tim tạo nên căn bản sự sống, gắn liền trực tiếp với sinh mạng của chúng ta. Bởi vậy, điều chính yếu của sự sống là trái tim và hơi thở.

Phép quán niệm hơi thở giúp ta trở về với thực tại, trở về với sự sống của chính mình, nhận chân được sự hiện hữu và giá trị của sự sống. Đức Phật dạy: “Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lãnh vực quán niệm; bốn lãnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được thực tập liên tục sẽ đưa đến trí tuệ và giải thoát.” (kinh Quán niệm hơi thở, trích Thiền môn Nhật Tụng 2000, Thiền sư Nhất Hạnh dịch, Nxb Tôn giáo, 2004. tr 36).

Hơi thở là sự sống mầu nhiệm, là phương thức thần diệu để rũ bỏ những tâm hành ràng buộc trong ta như bực bội, gắt gỏng, lo âu, sợ hãi, và nghi ngờ... Nếu chúng ta quán chiếu thật sâu từng hơi thở, thì chúng ta sẽ thấy hơi thở này là hơi thở của cha mẹ, tổ tiên, ông bà, là hơi thở của dòng họ tâm linh và huyết thống; là hơi thở của giang sơn tổ quốc, của mọi người và mọi loài.

Khi chúng ta sống có ý thức trong từng hơi thở thì khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy rất hạnh phúc. Chúng ta cảm thấy mừng vui, khi biết rằng mình có phước báo hơn các sinh vật khác, và có hạnh phúc hơn những người đang giam hãm tù đày.

Bởi vậy, khi đón nhận hơi thở, chúng ta phải biết cách trân quý, nuôi dưỡng và chăm sóc hơi thở ấy, rồi từ đó mới có thể vun trồng bằng cách nào đó để cho thân và tâm được an tịnh, biết rõ mọi cảm thọ và vạn pháp đang diễn ra.

Khi theo dõi hơi thở một cách có ý thức thì chúng ta sẽ làm chủ được tất cả những hành động của thân, biết rõ tường tận mọi trạng thái đang xảy ra trong thân, nhận diện được sự giả hợp và biến chuyển của nó. Càng thực tập, thì toàn thân của chúng ta càng trở nên an tịnh, không còn phải lao theo những tiếng gọi đời thường, không còn tạo ra những ngục tù giam hãm chính bản thân mình và những người chung quanh. Quán niệm về hơi thở trên lĩnh vực thân thể, trước hết là phát khởi ý thức về hơi thở: “Thở vào với ý thức minh mẫn là mình đang thở vào, thở ra với ý thức minh mẫn là mình đang thở ra”. Trở về với hơi thở có ý thức sẽ đưa ta trở về với chính ta, sẽ giúp ta tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm trong ta và chung quanh ta.

Lại nữa, từ sự thực tập quán niệm hơi thở, chúng ta có thể nhận diện, quán chiếu các cảm thọ đang có mặt trên thân và tâm. Biết rõ các cảm thọ (dễ chịu, khó chịu và trung tính) này do đâu mà có, nó đang hiện diện như thế nào, hậu quả của nó ra sao,… thì chúng ta sẽ thoát ra được mọi sự khống chế của thân hành; có một cái nhìn thấu triệt, có một tâm hồn bao dung. “Tôi đang thở vào và làm an tịnh cảm thọ trong tôi; tôi đang thở ra và làm an tịnh cảm thọ trong tôi”.

Tới đây, ta bước sang lĩnh vực quán niệm tâm ý. Quán chiếu về tâm ý như vậy, có nghĩa là quán chiếu về các loại dục vọng; đó là ngũ dục: tài dục (ham giàu sang), sắc dục (ham dâm sắc), danh dục (ham danh vọng), thực dục (ham cao lương mỹ vị), thùy dục (ham ngủ nhiều). Ngoài ra, hành giả còn quán niệm để thấy rõ tâm của mình có thiện căn hay không có thiện căn, quán niệm về tình trạng ô nhiễm hay thanh tịnh của tâm hành, quán chiếu về tâm có giải thoát hay không có giải thoát… Sự thực tập quán niệm hơi thở sẽ giúp cho hành giả thâu nhiếp tâm ý, làm cho tâm ý được an tịnh, vượt khỏi mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Từ đó tâm của hành giả mới trở nên mát dịu, thấy rõ được trời xanh, mây trắng. “Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta, ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta; ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được thanh tịnh, ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được thanh tịnh.” (kinh Quán niệm hơi thở).

Lại nữa, khi quán chiếu về hơi thở một cách sâu sắc, thì hành giả sẽ phát kiến được tính duyên sinh, vô thường và vô ngã của vạn pháp. Nhờ thấy được như thế, nên tâm của hành giả không còn ý tưởng tham cầu, vướng mắc đối với vạn pháp, vượt ra ngoài mọi cực đoan của cuộc đời. “Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp, ta đang thở ra và quán chiếu về tính vô thường của vạn pháp; ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp, ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp.” (kinh Quán niệm hơi thở).

Khi hành giả đã thực sự an trú trong phép quán thân trong thân, quán cảm thọ trong cảm thọ, quán tâm ý trong tâm ý, quán đối tượng tâm ý trong tâm ý, thì lúc ấy năng lượng chánh niệm được thành tựu, tinh tiến, tỉnh thức trong mọi động thái của thân và tâm, và hành giả bắt đầu đạt được yếu tố thứ nhất là Niệm. Niệm là yếu tố đầu tiên trong bảy yếu tố giác ngộ, làm nền tảng để phát triển những yếu tố giác ngộ về sau này. Niệm luôn luôn ghi nhận và biết một cách rõ ràng những trạng thái định và tuệ (chỉ và quán) ở nơi tự tâm. Trên nền tảng này, hành giả tiếp tục quán chiếu để quyết trạch (trạch pháp) về các pháp. Quyết trạch  tức là dùng trí tuệ để chọn lựa và biết rõ pháp nào là pháp đưa đến cảnh giới sanh tử, pháp nào thì đem lại an lạc và hạnh phúc.

Sau khi đã chọn pháp hành đúng lý và cơ, hành giả tiếp tục nỗ lực thực hành thường xuyên theo pháp đã chọn ấy, để tâm luôn thăng tiến ở trong đời sống giải thoát và giác ngộ, đó là Tinh tấn.

Khi hành giả đi vững chãi và bền bỉ trên con đường Chánh đạo, thì tâm hành giả phát khởi niềm vui, yếu tố Hỷ lạc thành tựu.

Hành giả tiếp tục an trú trong trạng thái hỷ lạc, cảm thấy thân và tâm nhẹ nhàng, an tịnh và linh hoạt. Đây là giai đoạn mà hành giả đã làm chủ được trạng thái vui, buồn, yêu, ghét… và bắt đầu vượt trên những thứ đó. Bấy giờ, yếu tố thứ năm được sinh khởi và phát triển, đó là yếu tố Khinh an.

Sau khi đạt được yếu tố khinh an, hành giả tiếp tục thực tập và đi vào Định một cách dễ dàng. Tâm của hành giả hướng đến và an trú vào một đối tượng duy nhất, không còn tán loạn. Mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi cái nhìn… tất cả đều an trú trong định, rồi đến và đi một cách thong dong; không còn bị ràng buộc bởi những lề lối eo hẹp của đời thường, mang lại sự tĩnh lặng, an lạc, tự do và thảnh thơi. Lúc này yếu tố thứ bảy thành tựu, đó là Hành xả. Hành xả tức là các pháp vận hành thuộc về tâm sở đã bị loại trừ, tâm của hành giả hoàn toàn ở trong các trạng thái an tịnh và thuần nhất.

Khi đã đạt được bảy yếu tố giác ngộ này rồi, thì hành giả sẽ bước những bước thảnh thơi, thừa hưởng được sự mát mẻ của dòng suối thương yêu trên con đường trở về bến bờ giác ngộ, xem sự thịnh suy trong cõi phù du chỉ như hạt sương trên đầu ngọn cỏ.

Phương pháp Quán niệm hơi thở là phương thức thực tập thiền quán căn bản nhất, mà bất cứ ai muốn đi vào con đường hạnh phúc đều phải kinh qua; là phương pháp quán sát vạn pháp mà không có định kiến nào. Cứ quán sát đi, đừng có một ý niệm phân biệt, phán đoán hay lượng định đối với các pháp mà ta đang quán chiếu; có như thế thì tự tính của các pháp ấy mới hiển lộ. Và có như vậy ta mới đạt được sự bất sinh, bất diệt, tương tức và tương nhập; trở về tiếp xúc với những hiện tượng mầu nhiệm của cuộc sống như một buổi mai đẹp trời, một đêm trăng thu, một đóa hoa vàng tươi, v.v...

Nguyên Châu.
[Tập san Pháp Luân - số 12, tr.73, 2005]

BLOG COMMENTS POWERED BY DISQUS

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.