Bốn tâm vô lượng - Phần 2

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

 

I . BỐN TÂM VÔ LƯỢNG THEO QUAN ĐIỂM CÁC NHÀ TIỂU THỪA

Phần trên, chúng tôi mới giới thiệu tổng quát về Bốn tâm vô lượng, dưới đây chúng tôi sẽ đề cập chi tiết về quan điểm của các bộ phái Phật giáo hậu phát triển mà đại diện hiện tại là Tiểu thừa và Đại thừa.

Theo các nhà Tiểu thừa, Bốn tâm vô lượng này được đức Đạo sư đem ra dạy rộng rãi cho bốn chúng đệ tử tại gia và xuất gia, và cũng tùy vào thuộc tính của hai hàng đệ tử tại gia và xuất gia mà Ngài tuyên dạy cho hợp với căn cơ của họ. Trên căn bản tùy thuộc vào luật tắc nhân quả, Ngài thuyết minh về pháp “chỉ ác hành thiện” để hành giả đạt được những kết quả tốt lành trong cảnh giới nhân thiên mà việc trọng yếu là thoát khổ đắc vui. Đối với các hàng Phật tử tại gia, ngoài việc hành trì năm giới không cho sai phạm còn phải hành trì luôn cả hạnh tự lợi lẫn lợi tha trong phẩm chất từ bi vốn có của mình.

Theo Trường A-hàm 8, kinh Tán-đà-na, đức Đạo sư dạy Phạm chí về cách tu khổ hạnh làm thế nào để được gọi là rốt ráo chân thật thù thắng bậc nhất. Vì pháp này không có gì cao xa và không tưởng siêu hình, đó chính là các pháp thực tế hằng ngày mà trong đó các ông đang thực hành, là những pháp trói buộc, cấu uế và thực tế là chúng đã mang khổ đau đến với các ông. Nếu các ông   đảo ngược chúng lại, thì pháp được gọi là tu khổ hạnh đó sẽ trở nên thanh tịnh, an lạc. Đức Đạo sư dạy:
“Này Phạm chí! Người tu khổ hạnh mà tự mình không giết, không dạy người giết, tự mình không trộm cắp, không dạy người trộm cắp, tự mình không tà dâm, không dạy người tà dâm, tự mình không nói dối, không dạy người nói dối. Người ấy đem tâm từ rải khắp một phương, rồi các phương khác cũng vậy, từ tâm quảng đại, bình đẳng vô lượng, khắp cả thế gian, không chút oán kết. Bi tâm, hỷ tâm, xả tâm cũng như thế…”

Ở đây, nếu người tu khổ hạnh hay hành giả tại gia nào thực hành được triệt để những điều mà đức Đạo sư đã dạy như trên, thì trong hiện tại hay tương lai vị ấy sẽ đạt được những kết quả vô cùng to lớn như đức Đạo sư đã dạy tiếp theo đó:
“Người khổ hạnh kia lại có thể biết được việc xảy ra vô số kiếp trước, hoặc một đời, hai đời cho đến vô số đời, quốc độ thành hoại hay kiếp số trước sau, đều thấy đều biết cả. Lại còn thấy biết mình từng sanh vào chủng tộc đó, tên tuổi như thế, ăn uống như thế, sống lâu như thế, thọ khổ, thọ lạc như thế, từ kia sanh đây, từ đây sanh kia như thế. Những việc từ vô số kiếp như thế đều nhớ cả…”
“Vị ấy bằng thiên nhãn thanh tịnh xem xét các loài chúng sanh chết đây sanh kia, nhan sắc đẹp xấu, chỗ hướng đến tốt hay xấu, tùy theo hành vi mà bị đọa lạc; thảy đều thấy hết biết hết.
“Lại biết chúng sanh với thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện, phỉ báng Hiền Thánh, tà tín điên đảo, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa vào ba đường dữ. Hoặc có chúng sanh với thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, không phỉ báng Hiền Thánh, tu hạnh chánh tín, khi thân hoại mệnh chung được sinh vào cõi trời, cõi người. Bằng thiên nhãn thanh tịnh vị ấy xem thấy các chúng sanh có hành vi nào sinh tới chỗ nào, đều thấy biết hết. Đó gọi là khổ hạnh thù thắng bậc nhất.”

Qua kết quả đã được đức Đạo sư dạy ở trên, nếu hành giả nào đạt được sự tu tập hoàn hảo về phương pháp tu này, thì có thể nói là họ đã hoàn thành được hai minh trong ba minh của đức Phật, đó là Túc mạng minh và Thiên nhãn minh. Vì chính nhờ có Túc mạng minh này (pūrva-nivāsānusmṛti-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā) nên họ thấy được mọi việc trong quá khứ và chính nhờ Thiên nhãn minh (cyuty-upapatti-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā) này nên họ thấy được mọi việc trong vị lai, đây chỉ là bước đầu của việc thấy biết về quá khứ và tương lai; nhưng trạng thái Lậu tận minh (āsrava-kṣaya-jñāna-sākṣāt-kriya-vidyā) tức là Lậu tận trí thì họ vẫn chưa đạt được. Chỉ khi nào hành giả sau khi thành tựu hai minh này và phải yểm ly và hoàn thành việc xa lìa chúng, thì lúc đó trí vô lậu giải thoát mới có được và an lạc tịch diệt sẽ hiện hữu, tất cả mọi thứ phiền não, lậu hoặc sẽ đồng thời bị diệt tận. Đó là những gì đức Đạo sư đã dạy cho Phạm Chí và dạy cho những hành giả tại gia như thế nào là cách thức thực hành bốn tâm vô lượng, đi đôi với năm giới căn bản theo kinh điển Tiểu thừa.

Còn các hàng đệ tử xuất gia Thinh văn tỳ-kheo thì như trong Tăng Nhất A-hàm 7, phẩm An ban, đức Đạo sư dạy Tôn giả La Vân (Rahula: âm dịch là La-hầu-la) phương pháp tiêu trừ phiền não, bởi vì Tôn giả luôn ôm lòng sầu lo, thậm chí trong lúc đi khất thực mà Tôn giả vẫn không cột được chánh niệm, lòng bị sầu ưu trói chặt. Tôn giả đã không giữ được chánh niệm đành phải bỏ dở cuộc đi khất thực giữa đường để trở về Tinh xá Kỳ Hoàn, ra gốc cây, kiết già phu tọa, nhất tâm ngưng trụ, tư duy về tính vô thường của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhằm đối trị tâm ưu sầu của mình. Trong lúc đó, đức Đạo sư cũng đi khất thực và sau khi thọ trai kinh hành xong, đức Phật đến chỗ Tôn giả La Vân, bảo rằng:
“Thầy nên tu tâp và thực hành pháp An Ban; tu tập thực hành pháp này thì sẽ diệt trừ hết được những tư tưởng có được về ưu sầu. Hôm nay Thầy lại đang tu tập và hành ác, biểu lộ qua tưởng bất tịnh, nên trừ diệt hết những tham dục có được. Này La Vân, nay Thầy nên tu tập và thực hành tâm Từ, đã thực hành tâm từ rồi thì những sân nhuế có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Bi, đã thực hành tâm Bi rồi thì tâm não hại có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Hỷ, đã thực hành tâm Hỷ rồi thì tâm tật đố có được đều sẽ được trừ hết. Này La Vân, nay Thầy nên thực hành tâm Xả, đã thực hành tâm xả rồi thì tính kiêu mạn có được đều sẽ được trừ hết.”

Ở đây, bốn tâm vô lượng được đức Đạo sư đem ra dạy cho các hàng đệ tử xuất gia với mục đích đối trị tâm sân nhuế, hại, tật và kiêu mạn của họ; vì bốn tâm này (là bốn trong mười loại tâm sở thuộc tiểu phiền não trong lục vị tâm sở) thường gây nên sự chướng ngại con đường đưa hành giả đến bến bờ giải thoát. Khi hành giả dùng bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả để đối trị với bốn tâm sở tiểu phiền não ấy, chính là lúc hành giả chánh niệm, chánh định trong pháp tu đối trị để thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý của mình ngay trong cuộc sống hiện tại hiện tiền này. Đây chính là phương pháp tu tự lợi dành cho các hàng đệ tử xuất gia; nếu Tỳ-kheo nào có những thứ phiền não phù hợp với bốn phương pháp đối trị này thì việc thực hành sẽ mang lại cho hành giả những kết quả tốt đẹp trong việc tẩy sạch ba nghiệp thân khẩu ý. Và để tiến xa và triển khai sâu rộng hơn nữa trong việc khế cơ các hàng Tỳ-kheo có căn cơ bén nhạy  để bẩm thụ những pháp vị thậm thâm mà ở đó bao hàm cả hạnh tự lợi lẫn lợi tha, thậm chí, khi hành giả thực hiện việc tu tập tự lợi, đức Đạo sư đã hướng dẫn các Tỳ-kheo qua bốn tâm vô lượng, thực hiện hạnh lợi tha không những cho mình và cho kẻ khác, thậm chí, trong khi hành giả thực hiện việc tu tập tự lợi. Theo Trung A-hàm 21, kinh Thuyết xứ, đức Đạo sư đã dạy Tôn giả A-nan:
“A-nan, trước kia Ta đã nói cho ông nghe về bốn tâm vô lượng, tâm Tỳ-kheo đi đôi với từ biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cứ như thế, hai phương, ba phương, bốn phương, tứ duy, trên dưới biến khắp tất cả, tâm đi đôi với từ, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. Bi và hỷ cũng vậy. Tâm đi đôi với xả, không kết, không oán, không sân nhuế, không tranh, vô cùng rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu an trụ. A-nan, bốn vô lượng này, ông hãy nói để dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu. Nếu ông nói và dạy cho các Tỳ-kheo niên thiếu về bốn vô lượng này, họ sẽ được an ổn, được sức lực, được an lạc, thân tâm không phiền nhiệt, trọn đời tu hành phạm hạnh.”

Ở đây, Tỳ-kheo không những chỉ trải lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả cho chính mình để đối trị những bệnh phiền não mà còn trải lòng từ, bi, hỷ, xả của mình đến tận khắp tất cả thế gian vô biên tế, không kết oán, không sân nhuế, không tranh giành, khéo léo dàn trải bốn tâm đến vô lượng vô biên không còn ngằn mé, khéo dụng tâm tu tập, thành tựu an trụ. Khi Tỳ-kheo đã thực hiện tâm vô lượng như vậy rồi, thì tâm họ sẽ được an ổn, được sức mạnh, được mọi sự an lạc. Lúc này thân và tâm Tỳ-kheo không còn phiền não bức bách nữa, nhờ vậy mà trọn đời họ hành phạm hạnh, một cách hoàn hảo và trọn vẹn. Chính vì sự lợi ích của việc thực hành bốn tâm vô lượng như vậy cho nên đức Đạo sư bảo Tôn giả A-nan hãy đem phổ biến rộng rãi dạy lại cho các Tỳ-kheo trẻ nên thực hành hạnh này ngay trong cuộc sống của chính mình. Cả hai bản kinh Trung A-hàm 21 ở trên và Tăng Nhất A-hàm 6 đều có cùng một nội dung và cùng một ý nghĩa; nhưng trong kinh này, tức kinh  Tăng Nhất A-hàm chỉ nêu lên vấn đề khác hơn kinh Trung A-hàm là hành giả đệ tử Hiền Thánh khi không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui rồi đem tâm từ, tâm bi, tâm, hỷ, tâm xả trang trải khắp cả thế gian, thì khi ấy không nơi nào là không đạt đến; cũng vậy, với tâm hành giả không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết hết được mà tự an trú, rồi đem tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi thì tâm ý hành giả sẽ được chính, cũng có thể gọi là chánh tâm, chánh ý hay chánh niệm. Vậy thì khi hành giả đạt được bốn tâm vô lượng trong việc trang trải khắp cả mọi nơi trên thế gian khi không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui thì tâm ý sẽ được chánh niệm như những gì đức Đạo sư đã dạy trong Tăng Nhất A-hàm 6:
“Nếu đệ tử Hiền Thánh kia không sân, không nhuế, không có ngu si, tâm ý hòa vui, đem tâm từ trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm từ này rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi, tâm ý liền chính.
“Lại đem tâm bi trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm bi này trang trải đầy khắp, ở trong đó được hoan hỷ rồi, thì tâm ý liền chính.
“Lại đem tâm hỷ trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm hỷ này rải khắp tràn đầy, ở trong đó được hoan hỷ rồi, tâm ý liền chính.
“Lại đem tâm xả trải khắp một phương mà tự an trú; hai phương, ba phương, bốn phương cũng như vậy; bốn góc, trên dưới, ở trong tất cả cũng như tất cả thế gian, với tâm không oán, không hận, vô lượng, vô hạn, không thể tính biết, mà tự an trú, đem tâm xả này trang trải đầy khắp, ở trong đó được hoan hỷ rồi, thì tâm ý liền chính.”

Ở trên, chúng tôi chỉ mới trích dẫn một số kinh tiêu biểu trong bốn bộ A-hàm, tiếp theo chúng tôi sẽ căn cứ vào các bộ luận của các nhà Tiểu thừa để giải thích về Bốn tâm vô lượng.
(còn nữa)Ngài Karmapa thứ 17 sinh năm 1985, tại làng Lhatok phía đông Tây Tạng. Năm 1992, ngài được cung đón về tu viện Tsurphu, và chính thức trở thành vị Karmapa. Năm 10 tuổi, ngài đã có thể thẩm định sự tái sinh của nhiều vị Lạt-ma. Mặc dù ngài được chính quyền Trung Quốc xác nhận, nhưng với tư cách là Karmapa, ngài từ chối lời đề nghị lên án đức Đạt-lai Lạt-ma của Trung Quốc, và không thừa nhận Panchen Lama do Trung Quốc bầu chọn. Năm 2000, Karmapa Ogyen Thrinley Dorje thứ 17 quyết định rời khỏi Tây Tạng và sống lưu vong tại Ấn Độ. Hiện nay, ngài đang lưu trú tại Dharamsala, nơi đức Đạt-lai Lạt-ma cư ngụ. Tuy mới 23 tuổi nhưng ngài rất được Tăng ni và Phật tử theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong nước cũng như nhiều nước khác kính ngưỡng.

Thích Đức Thắng
[Tập san Pháp Luân - số 47, tr.3, 2007]