Pháp hội Kalachakra lịch sử tại Ấn Độ

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Số người đến tham dự Pháp hội Kalachakra lên đến gần 237.000 người từ các quốc gia trên thế giới.(PLO)



Pradesh - Ấn Độ: Từ ngày 03 đến 16 tháng Giêng 2006, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 của Tây Tạng đã chủ trì Pháp Hội Kalachakra ở Amravati, Andhra, Pradesh, Ấn Độ. Đại diện của Trung Tâm Busshokai thuộc Kanazawa, Nhật Bản - đơn vị tài trợ chính cho Pháp hội này - đã đứng ra thỉnh cầu đức Đạt-lai Lạt-ma vì nền hòa bình thế giới và vì sự lợi lạc của tất cả chúng sanh mà ban bố lễ quán đảnh Kalachakra này.

Theo thống kê từ danh sách đăng ký làm thẻ vào cổng và đăng ký thuê lều ở cho thấy, số người đến tham dự Pháp hội Kalachakra lên đến một con số khổng lồ: gần 237.000 người từ các quốc gia trên thế giới. Có đến 5.000 cảnh sát được giao nhiệm vụ giữ gìn an ninh cho Pháp hội Kalachakra. Nơi đây rất hẻo lánh, cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn, do đó không có khách sạn hay nhà trọ cho du khách đến thuê ở. Vì vậy, chính phủ Ấn Độ đã huy động cả mấy trăm ngàn chiếc lều vải. Có những căn lều có sức chứa cả trăm người cho những nhóm du khách hành hương tập thể. Khoảng hơn nửa năm về trước, nơi đây chỉ là một ngôi làng nghèo với những căn nhà ọp ẹp, lụp xụp nằm bên cạnh cánh rừng thưa quanh năm nóng bức; vậy mà giờ đây không khí nơi đây thật tấp nập, đông vui với cả một biển người đủ mọi màu da, sắc tộc. Mặc dù, họ đến từ các quốc gia, các châu lục khác nhau, giao tiếp bằng đủ loại ngôn ngữ nhưng tất cả đều có chung một tâm nguyện, đó chính là tinh thần khát khao cầu Pháp để tu tập. Ai nấy đều nô nức hân hoan chờ đón đức Đạt-lai Lạt-ma ban truyền Pháp ngữ như chính họ sắp sửa được đón nhận những lời Pháp vàng ngọc từ Kim Khẩu của đức Phật vậy. Sở dĩ Pháp hội lần này được tổ chức ở đây là vì chính nơi này - ngày xưa đức Phật đã truyền lễ Karachakra đầu tiên cho vua Su Chandra của Ấn Độ. Và đây cũng là lần truyền lễ Kalachakra thứ 30 của đức Đạt-lai Lạt-ma (nhiều người cho rằng có thể đây là lần truyền lễ cuối cùng của Ngài vì Ngài đã 71 tuổi). Thế nên, cả về điều kiện không gian và lẫn thời gian, Pháp hội lần này là một sự kiện vô cùng hy hữu có một không hai trong lịch sử Phật giáo. Từ những cánh cổng đồ sộ, sang trọng của các cơ quan chính quyền cho đến những chiếc cổng xiêu vẹo của những người dân chơn chát, đâu đâu cũng giăng đầy những tấm biểu ngữ, những bảng hiệu màu sắc rực rỡ với hình đức Phật Thích Ca bên phải, hình đức Đạt-lai Lạt-ma bên trái và những dòng chữ “Cung nghinh đức Đạt-lai Lạt-ma tôn kính!”; “Chào mừng tất cả các bạn đến với Pháp Hội Kalacakra 2006”…

Không khí tràn ngập niềm hỷ lạc và niềm hạnh phúc vô biên thể hiện trên từng ánh mắt, nụ cười hân hoan rạng rỡ của những người con Phật đã lặn lội ngàn dặm xa xôi từ bốn phương trời quy tụ về đây để được đón nhận Giáo pháp bằng một tấm lòng khát khao, kính ngưỡng chân thành. Từ 4 giờ sáng, họ đã phải xếp hàng để trình diện thẻ vào cổng. Vì vấn đề an ninh nên mỗi người vào cổng phải có thẻ và phải bước qua cánh cổng kiểm tra tự động bằng điện tử. Các nhân viên an ninh rà xét từng người rất kỹ. Không ai được phép mang điện thoại di động hay máy quay phim, chụp hình gì cả - ngoại trừ những người có thẻ phóng viên nhà báo hoặc đài phát thanh truyền hình quốc tế các nước. Từ 4 giờ sáng cho đến 9 giờ đêm mỗi ngày, dòng người cứ tiếp tục hòa vào Pháp hội không bao giờ ngừng dứt. Dân chúng ở tiểu bang này có cơ hội được mục kích (thấy tận mắt) một quang cảnh tưng bừng chưa từng thấy trong đời. Tất cả các chợ búa đều không thể nào cung cấp đủ lượng rau quả cho cả biển người như thế! Đức Đạt-lai Lạt-ma khuyến khích mọi người nên ăn chay, tránh sát sanh nên ở chợ chỉ bán thuần túy‎ rau quả mà thôi. Ban đầu chỉ có các cửa tiệm là bán hàng, dần dần, nhà nào cũng trở thành “cửa tiệm” cả! Tất cả các công việc thường nhật đều phải gát lại nhường chỗ cho việc chạy hàng về bán. Từ mùng, mền, chiếu, gối… cho đến xô tắm, thau giặt, nồi, chảo, bếp dầu, bếp ga…, rồi những quán ăn, quán nước mọc lên như nấm nhưng vẫn không thể nào đáp ứng nỗi lượng thức ăn cho hàng mấy trăm nghìn người như thế!

Từ “Kalacakra” là tiếng Sanskrit, nghĩa là: “vòng quay thời gian” hay “bánh xe thời gian”, chỉ cho vòng thời gian đặc trưng chứa trong mật chú Kalacakra. Khái niệm về vòng quay của thời gian thấm nhuần tất cả mọi phương diện của vũ trụ, kể cả thân thể và tâm trí của con người được sử dụng để chứng đạt được sự thật vi diệu về mối liên hệ của tất cả mọi phương diện của thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh.

Trái ngược với các Mật chú Phật giáo khác, lễ hội Kalacakra không phải là một sự kiện bí mật hạn chế người tham dự. Mọi người đều có thể tham gia mà không cần phải cam kết điều gì cả. Nhờ được tham dự, mọi người đều được ban phước nhờ năng lượng của Pháp hội được bắt nguồn từ lòng Từ bi và lòng yêu thương chân thành.

Có 3 loại Kalacakra: Kalacakra bên trong, Kalacakra bên ngoài và Kalacakra khác.

Kalacakra bên ngoài: Được diễn tả như quy luật của vũ trụ bên ngoài, giải thích về sự tuần hoàn của ngày, đêm, tháng, năm, các hành tinh, các tinh tú… và thậm chí bao gồm cả sự hình thành và tan rã của vũ trụ. Kalacakra bên ngoài dựa trên hệ thống lịch của Tây Tạng, vũ trụ học, thiên văn học, chiêm tinh học…

Kalacakra bên trong: Giải thích về hệ thống tâm lí, vật lí của con người nhờ hơi thở, năng lực… về mối quan hệ giữa thân và tâm, những quy luật năng lượng của cơ thể vật lí và đời sống tâm linh, đóng vai trò quan trọng trong nền y học Tây Tạng.

Kalacakra khác: Diễn tả cụ thể về những phương pháp thực hành một cách hài hòa và thanh lọc vòng tuần hoàn của vũ trụ bên ngoài cũng như trong cơ thể của hành giả bao gồm sự giới thiệu chi tiết về các phương pháp thiền định, lễ nghi và các biểu tượng. Thực hành Kalacakra khác này sẽ đưa đến sự thanh tịnh vi diệu của tâm và chứng đạt quả vị Phật.

Giáo lí của đức Phật về Kalacakra được mô tả trong Padamadibuddha: “Vào một đêm trăng tròn tháng Tư, mười hai tháng sau khi chứng được Đạo Vô Thượng, trong khi đang thuyết giảng về giáo lý Đại thừa vi diệu của Trí tuệ Ba-ba-mật trên đỉnh núi Linh Thứu cho chư Bồ-tát và Thánh chúng, đồng thời Như Lai cũng hiện ra thân hình khác và ngự trong đại Tháp ở Shri Dhanyakataka thuộc miền Nam Ấn Độ (ngày nay là Amaravati, nơi đức Đạt-lai Lạt-ma chọn truyền lễ Kalacakra lần thứ 30) – thuyết giảng Mật thừa và truyền lễ Kalacakra đầu tiên cho vua Suchandra ở cung điện Shambhala gần đó…” Như Lai đã thuyết giảng Mật chú vì lợi ích và sự ngộ đạo của tất cả chúng sinh. Ngày nay, đức Đạt-lai Lạt-ma cũng đã làm như thế vì nền hòa bình thế giới và sự hạnh phúc, an vui của nhân loại.

Thế nên trong bài phát biểu của Bộ trưởng tiểu bang Pradesh, ông Y.S. Rjase khara Reddy, vào lúc 2 giờ chiều 09/01/06, đã bày tỏ niềm kính ngưỡng sâu xa đến đức Đạt-lai Lạt-ma: “Vị Thánh Tăng Phật giáo đáng tôn kính nhất trên thế giới, bậc vĩ nhân của thế kỷ XXI, người đã mang trọn vẹn Lễ Kalacakra mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã trao truyền từ 25 thế kỷ trước và trao truyền lại một cách hoàn hảo cho nhân loại của thế kỷ XXI ngay trên tại mảnh đất là chiếc nôi đầu tiên của Kalacakra này…” Muôn vạn tràng pháo tay nổ vang không dứt, hưởng ứng lời phát biểu sâu sắc, tuyệt vời ấy của chính phủ Ấn Độ. Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng ban phước lành và tán thán công đức của các quan chức chính phủ Ấn Độ và tiểu bang Pradesh, những người đã nỗ lực ròng rã suốt 6 tháng trời bằng tất cả khả năng của mình để biến cánh rừng này thành nơi quy tụ gặp gỡ của những trái tim khát khao giáo Pháp và giúp cho Pháp hội được thành tựu mỹ mãn. Đặc biệt, họ đã phát tâm xây một tượng Phật Thích Ca ngồi cao 120 feets (tương đương 37m), để kỷ niệm nơi đức Phật truyền Pháp Kalacakla đầu tiên cho vua Suchandra. Công trình này có thể sẽ hoàn tất trong vòng ba tháng tới.n

Lược ghi từ pháp hội Kalacakla - Hoàng Phi

[Tập san Pháp Luân - số 23, tr.89, 2006]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.