Đức Đalai Lama trở lại thăm và ủng hộ trung tâm CCARE

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, ngài Tenzin Gyatso đã viếng thăm và ủng hộ $150,000 như đã hứa cho Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục về Tâm từ bi và Lòng vị tha (CCARE) tại trường Đại học Y khoa Stanford vừa đi vào hoạt động trong thời gian gần đây, nhằm thực hiện các nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của những loại suy nghĩ và cảm xúc này lên hệ thần kinh con người.

Đây được biết là số tiền lớn nhất mà Ngài từng đóng góp cho một dự án khoa học. Sự đóng góp của Ngài dẫu không nhiều so với con số 2 triệu USD mà trung tâm này đã quyên góp được. Song, hành động đó cũng giúp cho các tổ chức Phật giáo và Thiên Chúa giáo khác bắt đầu mở hầu bao của họ cho trung tâm.

Trung tâm là sáng kiến của giáo sư, bác sĩ khoa giải phẫu thần kinh Jim Doty và nhà thần kinh học William Mobley cùng các nhà khoa học đồng nghiệp khác tại đại học Stanford. Ý tưởng thành lập trung tâm bắt đầu vào tháng 11 năm 2005, khi đức Đạt-lai Lạt-ma đến Stanford tham dự buổi nói chuyện giữa các khoa học gia và các học giả Phật giáo về những khảo sát mang tính khoa học và tâm linh dựa trên kinh nghiệm của con người về tham ái và đau khổ. Sau chuyến thăm đó của đức Đạt-lai Lạt-ma và cũng dựa trên chính sở thích và kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực này, ông Doty đã tổ chức những buổi gặp gỡ, trao đổi nội bộ giữa các nhà khoa học của Stanford như Mobley, người cùng điều hành trung tâm với ông; Brien Kuntson - tiến sĩ tâm lý học; và Gary Steinberg, bác sĩ, giáo sư khoa giải phẫu thần kinh trong nỗ lực thúc đẩy các công trình nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc về vấn đề tương tác não bộ của hai đức tính bi mẫn và vị tha. Đến năm 2008, đoàn đại biểu từ Stanford đến Seattle, nơi đức Đạt-lai Lạt-ma đang tham dự một cuộc hội thảo liên quan đến lòng bi mẫn, biết được ý định đó của trung tâm, Ngài hứa sẽ quay trở lại Stanford và ủng hộ $150,000 cho những hoạt động nghiên cứu về vấn đề này. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển lớn từ chỗ khởi đầu là các hoạt động nghiên cứu chỉ mang tính tự phát nội bộ giữa những nhà khoa học có cùng sở thích và chí hướng sang chính thức thành lập một trung tâm nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Trung tâm đến nay đã quyên góp được hơn 2 triệu USD và đã thực hiện một vài nghiên cứu thí điểm, trong số đó có một vài trường hợp tiến hành khảo sát trên các hành giả tu tập thiền định theo truyền thống Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trong một cuộc quan sát, người ta nhận ra rằng khi những hành giả này khởi tâm suy nghĩ về những sự việc có liên quan đến lòng từ bi và vị tha thì khu vực não bộ mang tên neuro accumbens (còn được gọi là “vui trung tâm”) hoạt động mạnh mẽ hơn. Người ta còn đang khảo sát về phản ứng của cá nhân đến những nỗi khổ niềm đau của người khác, trong đó có 2 dạng phản ứng tiêu biểu: hoặc là chán ghét, thờ ơ hoặc là thấu hiểu, cảm thông và mong muốn hành động để xoa dịu nỗi đau ấy.

Dĩ nhiên, mục đích của trung tâm không chỉ ngừng lại ở việc nghiên cứu mà còn hy vọng sẽ khám hiện ra nhiều ý tưởng cho khả năng thiết lập mô hình luyện tập tinh thần để giúp mỗi cá nhân trở nên nhân ái, từ bi và vị tha hơn nhằm giúp các đối tượng như: cha mẹ và trẻ em trong những gia đình thường xuyên xảy ra nạn bạo hành trở nên hòa thuận hơn, các tù nhân trong trại giam bớt bạo lực hơn từ đó ngăn ngừa khả năng tái phạm, và tỷ lệ suy nhược thần kinh trong giới công nhân viên chức sẽ ngày càng giảm.

Trung tâm cũng sẽ bảo trợ cho một hội nghị chuyên đề dự kiến diễn ra vào tháng 3, tập họp nhóm các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực khắp nơi trên thế giới về tham dự bao gồm: các triết gia, học giả thiền định, nhà kinh tế thần kinh, khoa học gia về thần kinh. Tất cả họ đều đang làm việc trong phạm vi của cuộc nghiên cứu về tâm từ bi và lòng vị tha.

Một số người quan ngại rằng trung tâm sẽ gặp phải nhiều sự chống đối từ các nhà khoa học khác về sự liên hệ của nó đến một nhân vật tôn giáo và chính trị như đức Đạt-lai Lạt-ma như cách đây vài năm Ngài đã từng gặp phải trong một cuộc họp thường niên về khoa học thần kinh. Song, chính giám đốc trung tâm cũng phản hồi lại rằng đây chỉ đơn giản là công tác nghiên cứu khoa học dựa trên sở thích cá nhân cùng một vài đồng nghiệp và sự đóng góp của ngài Đạt-lai Lạt-ma không đồng nghĩa với nỗ lực nghiên cứu quan điểm của Phật giáo về khía cạnh này.

Ngọc Ánh
Theo bản tin compassion.stanford.edu
[Tập san Pháp Luân - số 60, tr94, 2009]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.