Phật giáo Nam Hàn ngưng biểu tình phản đối sự kỳ thị tôn giáo

Typography
  • Smaller Small Medium Big Bigger
  • Default Helvetica Segoe Georgia Times

Các nhà lãnh đạo Phật giáo vẫn biết những lời xin lỗi và hối tiếc của Tổng thống Lee Myung-bak, phát biểu trong cuộc họp nội các ngày 9 tháng 9 và được truyền hình trên toàn quốc, chưa thật sự thành tâm và đủ thiện ý.

 

Theo nhật báo Chosun, trong một hội nghị Phật giáo toàn quốc để tìm giải pháp cho sự xung đột giữa Phật giáo và chính quyền vào ngày 27 tháng 9, lãnh đạo của các tông phái Phật giáo Nam Hàn đồng thuận chấp nhận lời xin lỗi của Tổng thống Lee Myung-bak và ngưng những cuộc biểu tình chống lại những hành động khinh thị Phật giáo của giới chức trong chính phủ trong lúc những xung đột xã hội đang gia tăng và nền kinh tế nước này đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của sự khủng hoảng tài chánh toàn cầu.

Các nhà lãnh đạo Phật giáo vẫn biết những lời xin lỗi và hối tiếc của Tổng thống Lee Myung-bak, phát biểu trong cuộc họp nội các ngày 9 tháng 9 và được truyền hình trên toàn quốc, chưa thật sự thành tâm và đủ thiện ý. Điều Phật giáo cần là hành động cụ thể để ngăn chặn những hành động khinh thị Phật giáo, kỳ thị tôn giáo và truyền bá Phúc âm bằng ảnh hưởng chính trị và quyền lực của giới lãnh đạo quốc gia Nam Hàn, chứ không phải là những lời nói chỉ nhằm xoa dịu sự phản đối ôn hòa đang lan ra toàn quốc của tín đồ Phật giáo. Nhưng trong tình trạng nền kinh tế nước này đang gặp khó khăn và xung đột xã hội gia tăng, các nhà lãnh đạo Phật giáo không muốn tình trạng căng thẳng giữa Phật giáo và chính quyền tiếp tục gia tăng. Vì nó có thể là cơ hội để một số tôn giáo cực đoan lợi dụng kích động nhằm gây thêm xáo trộn xã hội.

Trong những năm gần đây đã có nhiều kháng thư ôn hòa của các nhà lãnh đạo Phật giáo vì sự phân biệt tôn giáo trong giới công quyền của các nhiệm kỳ Tổng thống tín đồ Tin Lành. Sự khinh thị Phật giáo ngày càng gia tăng và công khai hơn trong giới công chức kể từ khi ông Lee Myung-bak lên làm Tổng thống hồi tháng 02/2008. Trước khi lên nắm chính quyền, ông Lee đã nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ Tin Lành nhiệt thành như lời tuyên bố dâng thành phố Seoul cho Thiên Chúa khi ông đang làm thị trưởng thành phố Seoul trong năm 2002. Và sau khi trở thành người đứng đầu chính phủ, ông càng thể hiện lòng nhiệt thành của mình bằng cách bổ nhiệm hầu hết các chức vụ quan trọng trong nội các của ông cho những người ngoan đạo và nhiệt thành như ông. Đồng thời ông làm ngơ trước những hành động xúc phạm Phật giáo của những quan chức chính phủ và chính quyền địa phương. Điều này trái ngược với  hiến pháp nước này quy định về sự tách biệt giữa chính quyền và tôn giáo.

Mặc dù theo thống kê của chính phủ, năm 2005, số tín đồ Phật giáo chiếm 22,8% nhưng trong thực tế, tín đồ Phật giáo chắc chắn nhiều hơn số lượng mà chính phủ thống kê. Tín đồ Thiên Chúa giáo và Tin Lành chỉ chiếm khoảng 29%,  phần trăm còn lại là người theo Phật giáo, các tôn giáo khác và người không tôn giáo. Nếu để tình trạng thiên vị tôn giáo như thế gia tăng sâu rộng sẽ có thể dẫn đến nguy cơ xung đột tôn giáo, vì vậy từ đầu tháng 7, Phật giáo bắt đầu hành động để ngăn chặn một viễn cảnh xấu có thể xảy ra và để các tôn giáo có thể sống chung hài hòa với nhau như trong lịch sử tôn giáo nước này. Sự phản đối bắt đầu chỉ vài chục người, đến ngày 27 tháng 8, đã có hơn 60,000 Tăng Ni Phật tử của 25 Tông phái trong toàn quốc tuần hành phản đối ôn hòa tại thủ đô Seoul, buộc chính phủ của ông Lee phải xin lỗi và hứa hẹn không để những chuyện này tái diễn.

Phật giáo đã tồn tại và đồng hành cùng dân tộc Hàn Quốc gần 17 thế kỷ kể từ khi Tổ sư Thuận Đạo đem Phật giáo từ Trung Quốc đến đất nước này vào năm 372. Giáo lý của đức Phật từng là tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần và tâm linh của dân tộc trong những giai đoạn đất nước này hưng thịnh, nhưng không vì thế mà Phật giáo gây cấn hay khinh thị các tôn giáo khác.

Thích Nguyên Lộc
[Tập san Pháp Luân - số 55, tr.94, 2008]

Phàm lệ

Đây là phần dịch Việt từ môn đọc hiểu Phật điển Sanskrit, khoá 12 khoa Phật học Sanskrit, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp.HCM. Bản dịch này chủ yếu từ nguồn tài liệu chữ Phạn (Sanskrit) hiện hành, bên cạnh đó, do vì kinh điển thường tụng ở chùa Việt thường dùng âm Hán Việt, nên để tiện tham chiếu, dịch văn chữ Hán của La Thập tương ứng cũng được đính kèm.

Triṃśikāvijñaptimātratākārikā

Duy Thức Tam Thập Tụng - Đối chiếu Phiên dịch 

 “Khởi kỳ thủy thế gian chỉ có một mình Tự Ngã, trong hình dạng một con người (Purusha). Anh ta nhìn chung quanh không thấy có gì nữa ngoài bản thân mình. Thoạt tiên anh ta nghĩ: ‘Đây là Tôi’ do vậy anh ta trở nên có tên là ‘Tôi’.

Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc, hy sinh tận tụy…

Cuối thu, bầu trời thật ảm đạm, những cơn mưa cứ ập đến có khi trầm ngâm, da diết rồi bỗng ào ạt, xốn xang như len lỏi tận cùng ngõ ngách của bao tấm lòng người con xa xứ. Kia, ông mặt trời hé môi cười báo hiệu cho buổi sáng tinh khôi, thoang thoảng đâu đây con nghe dìu dịu - hương tỏa ngát từ những cánh sen hồng. Bất chợt giật mình, Vu lan về rồi ư?

Ý niệm tình thương mà con người có được nơi trái tim có lẽ đã khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn suối tình thương của mẹ.

Giữa thế kỷ thứ IV, Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào bán đảo Hàn Quốc. Bấy giờ Hàn Quốc bị chia thành ba vương quốc: Cao Cú Ly (Kokuryu), Bách Tế (Paekche) và Tân La (Silla). Ngay sau khi Phật giáo truyền đến vương quốc Cao Cú Ly (372) và vương quốc Bách Tế (384) đã được hai vương quốc này công nhận là quốc giáo. Nhưng gần hai thế kỷ sau, vương quốc Tân La mới công nhận Phật giáo là quốc giáo. Đây là nguyên nhân vương quốc Tân La được thành lập sau cùng trong ba vương quốc khi quyền lực tập trung dưới sự cai trị của một vị vua.

Tâm lý học xã hội, tín ngưỡng tôn giáo được xem là nền tảng kiến tạo đạo đức, điều chỉnh trật tự xã hội. Trong tâm lý học xã hội, tâm lý giáo dục, tâm lý học đương đại, tâm lý quản lý và tâm lý trị liệu… các học giả đã đề cập vấn đề tín ngưỡng khá phổ biến. Tín ngưỡng trong xã hội học được xem là nhu cầu đáp ứng khát vọng tâm linh cho con người.

Tết đến, cũng như các dịp lễ lạc hệ trọng khác trong năm, Tăng, Ni, Phật tử các chùa thường làm báo tường, ra nội san… Nhân dịp xuân về, chúng tôi đề xuất một hình thức mới, đó là tạp chí video (còn gọi là tạp chí truyền hình, khi được đưa lên phát trên sóng truyền hình quảng bá hay truyền hình online).

Chúng tôi đã xem nhiều tác phẩm điện ảnh thể hiện sự đau khổ của kiếp người, nhưng có lẽ, phim Cánh đồng bất tận, chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, là bộ phim khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều nhất. So với tác phẩm văn học, cái khổ trong phim Cánh đồng bất tận được đẩy lên một tầng nấc mới, nặng nề và đau xót hơn nhiều.

Thái Bình – mảnh đất của những cánh đồng phì nhiêu, tươi tốt. Nằm bên bờ sông Hồng, một trong hai con sông lớn nhất Việt Nam (sông Hồng, Sông Cửu Long). Bởi vậy Thái Bình luôn đón nhận được những lớp phù sa phì nhiêu bồi tụ. Nó chính là chất liệu để làm nên đặc trưng truyền thống nông nghiệp lúa nước nơi đây, để rồi những đặc trưng đó đã quy định những giá trị văn hóa của vùng đất này – văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Kể từ sau đời Hán, Đôn Hoàng trở thành con đường giao thông huyết mạch từ Trung Hoa sang Tây Vực, và cũng từ đó, văn hóa Trung Hoa dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Với vị trí tiếp giáp Tây Vực, Đôn Hoàng tiếp nhận văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ rất sớm. Văn hóa Tây Á, Trung Á theo hướng truyền về phía đông của văn hóa Phật giáo Ấn Độ cũng dần dần được truyền đến Đôn Hoàng. Hai nền văn hóa Trung-Tây hội tụ, va chạm, hòa lẫn với nhau tại đây.

Những đêm dài heo hút giữa lòng con/ Đôi mắt Mẹ hiện về sâu thăm thẳm/Chừ tuổi hạc gầy hao theo tuế nguyệt/ Sương đêm rơi trong cõi nhớ chập chùng.

Con đành xa Mẹ từ lâu/ Đến nay mấy bận bạc màu xiêm y/ Thời gian còn lại những gì?!/ Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.

Vin cành lộc thắm - mẹ khai duyên/ Bảy bước, nhân gian trổ phước điền/ Ngưỡng vọng, phạm thiên che lọng trắng/ Tín thành, long chúa cúng mưa tiên

Truyền thông - "hiện đại hóa" hay thừa tiếp truyền thống Phật giáo?

Ta thường nghĩ rằng, Đạo và Đời là hai lãnh vực khác nhau, Đạo thì cao siêu, rộng lớn mà Đời thì phàm phu, chật hẹp.

Hạt giống ganh tỵ vốn có ở trong tâm thức của mỗi chúng ta, nó là thuộc tính của chấp ngã.

Đất nước Việt Nam với chiều dài từ Bắc vô Nam, theo dấu tích lịch sử, Phật giáo vùng Bắc bộ được ảnh hưởng từ Trung Quốc, Trung Bộ và Nam bộ được ảnh hưởng từ Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.

Phật giáo được truyền đến Tibet chính thức là khoảng thời vua Srong-btsan sGam-po

Trước tiên Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ đã được truyền đến Gandhāra, và mở rộng đến Trung Quốc thông qua đường Trung Á.

Trao đổi ý kiến với một vị thượng tọa đã từng làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh từ những năm ngoài 20 tuổi, tôi được lưu ý không nên bỏ qua vai trò Viện Đại học Vạn Hạnh là một think tank của tổ chức Phật giáo tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.

Tiêu chuẩn hợp lý được đặt ra cho nền khoa học hiện đại và  chủ nghĩa duy vật ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của giới trí thức. Phần lớn những nhà trí thức hiện đại đưa ra những luận cứ để chối bỏ những lý luận siêu hình và những lễ nghi Tôn giáo truyền thống.


Giáo dục là một trong những hoạt động cơ bản của xã hội con người. Từ giáo dục (education) có gốc từ tiếng Latin “educare” mà nó có nghĩa là nuôi nấng dạy dỗ, đặc biệt trong sự liên hệ với trẻ em; và thường được liên hệ với động từ “educere” mà nó có nghĩa là sinh ra.

Tựa đề này được mô phỏng từ chương thứ ba của sách Phật điển đã được Hán dịch như thế nào của tác giả Funayama Tōru. Chương thứ ba ở đấy có tên đề đầy đủ là “Việc phiên dịch đã được làm như thế này: Phương pháp cụ thể để tác thành Hán dịch và sự phân chia vai trò trách nhiệm”.

仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき

Đại Tạng

Đây là tựa đề của một quyển sách của tác giả Funayama Tōru. Sách có tựa đề đầy đủ là “Phật điển đã được Hán dịch như thế nào: Khi Sūtra trở thành kinh điển”, trong nguyên tác tiếng Nhật là 仏典はどう漢訳されたのか:スートラが経典になるとき (Making Sutra into ‘Classics’ (jingdian): How Buddhist Scriptures Were Translated into Chinese), được xuất bản bởi Iwanami Shoten, năm 2013.